"Hèn mà còn nhận ra mình là thằng hèn, là hèn tử tế. Hèn mà ngậm miệng ăn tiền là hèn nhơ bẩn.
Hèn mà ngậm máu phun người là hèn bất nhân. Hèn bán đất bán nước thì trời tru đất diệt"
(Phạm Chuyên)

Freitag, 13. August 2010

Sự trỗi dậy của một cường quốc quân sự

Vũ Quang Việt

Sự quan trọng của Biển Đông Nam Á đối với khu vực và thế giới

Không có gì có thể gây khó khăn cho sự phát triển một cách hòa bình của khu vực Đông Nam Á và toàn bộ lục địa châu Á hơn là sự can dự tích cực của quyền lực Trung Quốc tại biển Nam Trung Hoa. Vùng biển này có lẽ nên gọi là Biển Đông Nam Á (SEAS)[1] thì thích hợp hơn, vì nó là trung tâm của khu vực Đông Nam Á và các hoạt động hàng hải kết nối các nước trong khu vực Đông Nam Á, Bắc Á, ra biển Thái Bình Dương, các lục địa Ấn Độ, Trung Đông, Châu Phi và Châu Âu.

Phần lớn hoạt động thương mại toàn cầu (khoảng 90% khối lượng) qua vận chuyển bằng đường biển và đường biển trên biển ĐNA vô cùng quan trọng đối với các dòng chảy thương mại này. Eo biển Malacca giữ vai trò đặc biệt quan trọng vì nó cung cấp các tuyến đường ngắn nhất giữa Ấn Độ Dương và biển ĐNA, và được sử dụng bởi hơn 70.000 tàu chở hàng năm, chuyên chở hơn 15 triệu thùng dầu trong năm 2006 và ước tính khoảng một phần ba thương mại thế giới. Biển ĐNA là rất quan trọng đối với mỗi quốc gia trong khu vực, đặc biệt đối với Nhật Bản, khi hơn 90% nhu cầu dầu của Nhật phải nhập khẩu và chủ yếu được vận chuyển qua biển ĐNA. Trung Quốc cũng phụ thuộc lớn vào việc vận chuyển qua biển ĐNA khi Trung Quốc nhập khẩu khoảng 43% nhu cầu năng lượng trong năm 2006 và năm 2020 này phụ thuộc được dự đoán sẽ tăng lên tới 60% hoặc thậm chí cao hơn.[2]

Bây giờ, khi Chiến tranh Lạnh đã qua đi, Biển ĐNA đáng lẽ đã có thể mang lại một môi trường hòa bình cho tất cả các nước liên quan. Trên thực tế, các nước đều có thể đi lại tự do ở vùng biển này từ trước chiến tranh thế giới thứ II. Trong nghìn năm lịch sử cho đến khi Thế chiến thứ hai nổ ra, không quốc gia nào từng đưa ra một yêu sách chủ quyền với vùng biển trong khu vực biển ĐNA với tư cách vùng nước nội thủy hoặc vùng nước lịch sử hay cố gắng thu thuế, phí bảo vệ vùng biển hay yêu cầu các nhà hàng hải nộp đơn đề nghị sử dụng vùng biển này.

Ngoài ra, cả ngàn năm trước khi thực dân xâm chiếm châu Á và trước Thế chiến thứ hai, không nước nào từng yêu sách chủ quyền, thiết lập chính quyền địa phương có hiệu quả, hoặc dự định dùng sức mạnh để bảo vệ chủ quyền của mình trên bất kỳ hòn đảo nào thuộc quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nhằm mục đích kiểm soát chính biển ĐNA.

Chỉ có một ngoại lệ và cũng chỉ dừng ở mức khai thác kinh tế, là ở vài hòn đảo nhỏ ở quần đảo Hoàng Sa, nơi mà từ năm 1816 vua Gia Long và các Hoàng đế Việt Nam sau này coi là lãnh thổ Việt Nam, hàng năm đều gửi thủy thủ để thu thập những tài sản có giá trị còn lại từ các vụ đắm tàu. Hành động này là bình thường đối với bất kỳ một quốc gia, đã đến một vùng đất không có người ở – để khai thác nguồn tài nguyên, nhất là những hòn đảo này ở gần Việt Nam hơn là gần các nước khác.

Trung Quốc chưa bao giờ có chủ quyền trên biển Đông Nam Á

Trung Quốc, ngay trong lúc năng lực hàng hải vào giai đoạn đỉnh cao ở thời nhà Minh, vào thế kỉ 15 đã gửi Trịnh Hòa (郑和, Zhenghe) với hàng nghìn tàu và hàng chục ngàn binh sĩ tiến hành cuộc thám hiểm qua biển ĐNA và Ấn Độ Dương để chứng minh sức mạnh quân sự của Trung Quốc và đưa các phái viên nước ngoài dọc theo tuyến đường biển tới Trung Quốc để biểu thị lòng tôn kính với hoàng đế Trung hoa và triều cống.

Tuy nhiên, các cuộc thám hiểm này không nhằm mục đích chiếm đóng đất đai hoặc là kiểm soát vùng biển này. Từ những cuộc thám hiểm như thế này và các cuộc thám hiểm bé hơn đã là cơ sở để vẽ ra bản đồ Trung Quốc và bản đồ các vùng đất bên ngoài. Những bản đồ về “thế giới trong mắt Trung Quốc” không hề thể hiện là các vùng đất liền, hải đảo và đại dương này thuộc chủ quyền Trung Quốc, mặc dù chúng thường được diễn giải như vậy bởi Trung Quốc và các học giả Trung Quốc để hỗ trợ cho lập luận của nước này rằng quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa, và 80% diện tích Biển ĐNA là vùng đất lịch sử và vùng biển của Trung Quốc.[3]

Thế chiến thứ hai, đế quốc Nhật và ý đồ kiểm soát biển Đông Nam Á

Sự bất ổn tại biển ĐNA chỉ xảy ra khi Nhật Bản, trước và trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, đã cố gắng mở rộng quyền kiểm soát của họ trên Biển ĐNA.[4] Để chống lại sự mở rộng của Nhật Bản, và để bảo vệ các thuộc địa của họ, năm 1933 Pháp, một mình và đôi khi với sự khuyến khích của Anh, đã chính thức yêu sách chủ quyền đối với toàn bộ quần đảo Hoàng Sa (Trung Quốc gọi là Tây Sa) và quần đảo Trường Sa (Trung Quốc gọi là Nam Sa) ở vùng biển ĐNA. Trường hợp ngoại lệ là đảo Pratas (mà Trung Quốc gọi là Đông Sa) chỉ một mình Trung Quốc yêu sách chủ quyền và hiện nay đang kiểm soát đảo này.

Trung Quốc từ ý đồ sở hữu Hoàng Sa và Trường Sa

Kể từ sự sụp đổ của chủ nghĩa bành trướng Nhật Bản và chủ nghĩa thực dân phương Tây sau Thế chiến II, quá khứ đế quốc của Trung Quốc dường như đang trỗi dậy, có vẻ như đang cố gắng khôi phục lại vinh quang đã qua của mình. Ngay sau khi chiến tranh, Trung Quốc bắt đầu thực hiện chính sách gặm nhấm từng bước biển ĐNA. Quá trình này bắt đầu với tuyên bố của Chu Ân Lai về chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vào năm 1951, và tiếp tục với những bước đi thận trọng để chiếm các đảo này khi Trung Quốc cảm thấy đủ an toàn để làm như vậy. Trong tuyên bố năm 2000, Bộ Ngoại giao Trung Quốc đưa ra các lý do sau đây để viện dẫn cho yêu sách chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa:[5]

Trung Quốc có chủ quyền không thể chối cãi đối với quần đảo Nam Sa [Trường Sa – tên gọi của Việt Nam] và các vùng nước lân cận. Trung Quốc là quốc gia đầu tiên phát hiện và đặt tên cho quần đảo là Nam Sa và là quốc gia đầu tiên thực hiện chủ quyền đối với quần đảo này. Chúng tôi có lịch sử phong phú và bằng chứng pháp lý để chứng minh điều đó và cộng đồng quốc từ lâu đã công nhận điều đó.

Trong Thế chiến II, Nhật Bản phát động các cuộc chiến tranh xâm lược Trung Quốc và chiếm phần lớn lãnh thổ của Trung Quốc, bao gồm cả quần đảo Nam Sa. Điều này đã được nêu rõ trong Tuyên bố Cairo, Tuyên bố Potsdam và các văn bản quốc tế khác rằng tất cả các vùng lãnh thổ Nhật Bản đã bị đánh cắp từ Trung Quốc cần phải được giao lại cho Trung Quốc, và lẽ tự nhiên, chúng bao gồm quần đảo Nam Sa.

Tháng 12 năm 1946, Chính phủ Trung Quốc sau đó đã gửi quan chức cao cấp đến quần đảo Nam Sa để khôi phục chủ quyền. Lễ tiếp quản đã được tổ chức trên quần đảo và một tượng đài đã được dựng lên trong dịp kỷ niệm đó, và các binh sĩ đã được gửi qua làm nhiệm vụ đồn trú.

Năm 1952 Chính phủ Nhật Bản đã chính thức tuyên bố rằng Nhật Bản từ bỏ tất cả của nó “quyền, tên gọi và yêu sách chủ quyền đối với Đài Loan, đảo Bành Hồ cũng như các quần đảo Nam Sa và Tây Sa”, do đó chính thức trả lại quần đảo Nam Sa cho Trung Quốc. Tất cả các nước đều thấy rõ đây là một phần của nền lịch sử.

Như một vấn đề của thực tế, Hoa Kỳ công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Nam Sa trong một loạt các hội nghị quốc tế và thông lệ quốc tế sau đó.

Phần trích dẫn trên có nhiều tuyên bố sai so với sự thật. Hoàn toàn sai khi tuyên bố rằng Tuyên bố Cairo và Potsdam đã quyết định rằng quần đảo Hoàng Sa (Tây Sa) và Trường Sa (Nam Sa) được trả lại Trung Quốc. Cũng hoàn toàn sai khi nói rằng Mỹ công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Nam Sa. Đúng là Nhật Bản đã được yêu cầu phải từ bỏ tất cả các vùng đất mà họ đã chiếm đóng nhưng không có lệnh nào yêu cầu Nhật Bản trả Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc. Trên thực tế, đề nghị của Liên Xô về việc này đã bị bác bỏ.[6] Thật ra đề nghị của Liên Xô, chỉ sau tuyên bố chủ quyền trên Hoàng Sa và Trường Sa của Chu Ân Lai một tháng, là nhằm bành trướng khu vực kiểm soát cho khối cộng sản mà lúc đó Trung Quốc là một thành viên. (Các phân tích và tài liệu tham khảo với các sự kiện năm 1951 được liệt kê trong bảng phụ lục về biên niên sử các sự kiện liên quan đến biển ĐNA đã được kèm trong bài viết, và sẽ không được lặp lại ở đây). Bộ Ngoại giao Trung Quốc tuyên bố rằng Mỹ công nhận chủ quyền của Trung Quốc ở quần đảo Trường Sa bằng cách trích dẫn hai quyển tự điển do công ty tư nhân ở Mỹ vẽ và xuất bản thì quả thật là chuyện khôi hài. Chuyện khôi hài này vẫn còn trên mạng của Bộ Ngoại giao Trung Quốc.[7]

Mỹ đứng ngoài tranh chấp?

Trước khi Mỹ phát biểu ở Hà Nội vào tháng 7 năm 2010 khẳng định lần đầu sự quan tâm của Mỹ về hòa bình ở Biển ĐNA, về quyền tự do lưu thông trên biển, sẵn sàng hổ trợ việc đàm phán đa phương các tranh chấp giữa các nước, tức là gạt bỏ chính sách của Trung Quốc chỉ muốn đàm phán song phương, cần phải chỉ ra một điều quan trọng là Hoa Kỳ đã không thể hiện bất kỳ mối quan tâm nào đối với hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa kể từ năm 1950[8] cho đến năm 2010. Đây là lý do Trung Quốc tiếp tục tiến công vào Biển ĐNA, chiếm các đảo nằm trong tay Việt Nam, một nước được coi là thù địch với Mỹ, và hù dọa các nước khác. Chỉ gần đây, Mỹ đã nhiều lần tuyên bố:

“Hoa Kỳ luôn khẳng định chính sách cơ bản của chúng tôi liên quan đến yêu sách chủ quyền gây tranh cãi ở Biển Nam Trung Hoa (Biển Đông), gần đây nhất tại Đối thoại Shangri-La 2009, nơi Bộ trưởng Gates nói rằng Hoa Kỳ không đứng về bên nào trong tranh chấp chủ quyền và ủng hộ một giải pháp hòa bình để đảm bảo quyền tự do hàng hải”[9]

“Hoa Kỳ tiếp tục theo đuổi chính sách không đứng về bên nào trong tranh chấp yêu sách chủ quyền hợp pháp ở Biển Nam Trung Hoa. Nói cách khác, chúng tôi không đứng về bên nào trong tuyên bố về chủ quyền đối với các đảo cũng như các dải đất khác ở Biển Nam Trung Hoa, hoặc là miền biển (như vùng lãnh hải) có hiệu lực dựa trên cơ sở vùng đất lãnh thổ. Tuy nhiên, Hoa Kỳ quan ngại về các yêu sách chủ quyền đối với “vùng lãnh hải” hoặc bất kỳ vùng biển nào không dựa trên cơ sở vùng đất lãnh thổ. Những tuyên bố về vùng biển như vậy không phù hợp với luật quốc tế, như đã được phản ánh trong Công ước Luật Biển của LHQ”[10]

Gậm nhấm chờ thời của Trung Quốc

Chính sách gặm nhấm của Trung Quốc đã được tính toán cẩn thận và căn thời điểm để tránh càng nhiều càng tốt bất kỳ phản ứng đáng kể nào của thế giới.

Năm 1974, Trung Quốc sử dụng vũ lực để chiếm cụm đảo Lưỡi Liềm (Crescent) ở quần đảo Hoàng Sa lúc bấy giờ do quân đội miền Nam Việt Nam quản lý ngay sau khi quân đội Mỹ rút khỏi miền Nam Việt Nam theo Hiệp định Paris 1972 về chấm dứt chiến tranh Việt Nam. Việc này diễn ra đúng vào thời điểm miền Bắc Việt Nam, đồng minh của Trung Quốc đang phải tập trung nỗ lực vào cuộc chiến.

Năm 1988, Trung Quốc một lần nữa hành động, sử dụng vũ lực chiếm đảo Gạc Ma (Johnson South Reef) thuộc quần đảo Trường Sa vốn thuộc Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam nhằm đặt chân lên quần đảo Trường Sa. Việc này được thực hiện vào thời điểm hải quân Liên Xô ở Vịnh Cam Ranh, Việt Nam gần như không còn hoạt động do tình hình hỗn loạn ở Liên bang Xô Viết và đó cũng là lúc Việt Nam bị cô lập với quốc tế do vấn đề Campuchia.

Việc giành quyền kiểm soát một cách lén lút của Trung Quốc đối với đảo Vành Khăn ở Trường Sa từ tay Philippines không được phát hiện cho đến năm 1994 và 1995, và nó đã được tính toán xảy ra đúng vào thời điểm Hoa Kỳ đã được chính phủ Philippines yêu cầu đóng cửa căn cứ quân sự ở nước này.

Tuy nhiên, có một việc nằm ngoài kế hoạch của Trung Quốc là vào thời điểm này, Trung Quốc đang đối mặt với sự tẩy chay của cộng đồng quốc tế do việc đàn áp bạo lực tại quảng trưởng Thiên An Môn năm 1989. Thế nhưng, đó cũng có thể là hành động được Trung Quốc tính toán trước, như là một phép thử cần thiết về phản ứng đối với Trung Quốc một khi nước này có hành động đối với đồng minh thân cận của Mỹ.

Yêu sách chủ quyền của Trung Quốc đối với các đảo này chỉ là một bước đi ban đầu để tiến đến mục tiêu tham vọng hơn nhiều là kiểm soát toàn bộ Biển ĐNA. Trung Quốc đã xuất bản bản đồ 9 đoạn hình chữ U hầu như bao trọn vùng nước đại dương thuộc biển ĐNA như lãnh thổ của Trung Quốc. Tuy nhiên, Trung Quốc chưa bao giờ đưa ra một tuyên bố rõ ràng và cung cấp các luận chứng cho tuyên bố của mình. [11]

Từ chờ thời đến biểu dương sức mạnh quân sự

Tuy nhiên, năm 2009, phản ứng trước việc Malaysia và Việt Nam đăng kí chung về thềm lục địa lên Ủy ban về ranh giới ngoài thềm lục địa của LHQ ngày 6/5/2009, Trung Quốc cũng đã trình lên Ủy ban này tuyên bố về vùng nước rộng lớn bao quanh “đường ranh giới” 9 đoạn mà Trung Quốc vẫn chưa xác định rõ trên bản đồ.

Tuyên bố ngày 7/5/2009 viết, “Trung Quốc có chủ quyền không thể chối cãi đối với các đảo ở biển Nam Hải và các vùng nước lân cận, và được hưởng các quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với các vùng nước liên quan cũng như đáy biển và các tầng đất dưới bề mặt vùng biển đó (xem đính kèm)”.

Vùng nước liên quan của Trung Quốc trên thực tế là “những tuyên bố về vùng lãnh hải hoặc bất kỳ vùng biển nào không dựa trên cơ sở vùng đất lãnh thổ”, mối quan ngại không chỉ của Mỹ mà tất cả các nước ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Bản đồ kèm theo (bản đồ số 1 dưới đây) là đường chữ U chín đoạn gãy, nhưng không có tọa độ chính xác rõ ràng, đã được Trung Quốc chính thức nộp cho Liên Hợp Quốc nhằm nói lên rằng lãnh thổ trên biển của Trung Quốc gồm tới hơn 80% Biển ĐNA. Bản đồ số 2 tương tự như bản đồ số 1 được sử dụng để thể hiện không chỉ đòi hỏi của Trung Quốc mà còn mở rộng yêu sách chủ quyền của Trung Quốc chồng lấn vào khu vực 200 hải lý, vùng đặc quyền kinh tế của hầu hết các nước ở khu vực ĐNA, bao gồm Brunei, Malaysia, Indonesia, Philippines và Việt Nam.
Lãnh hải trong khu đường gạch chữ U Trung Quốc nộp cho Ủy ban Giới hạn Thềm Lục địa của Liên Hợp Quốc (UN’s commission on the Limits of the Continental Shelf)

Tuyên bố của Trung Quốc nếu được thực hiện sẽ cho phép Trung Quốc được toàn bộ Biển ĐNA và đẩy Mỹ và các cường quốc khác ra khỏi khu vực. Tuyên bố này đã làm thành viên của Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) lo ngại ở hai điểm. Trước tiên, quyền của các nước ASEAN đối với các khu dầu mỏ, quyền đánh bắt cá và khai thác tài nguyên dưới lòng đất khác sẽ bị hạn chế nghiêm trọng. Ví dụ, Việt Nam và Exxon Mobile hợp tác khai thác dầu khí ở giếng dầu Rồng Xanh (Blue Dragon) và bờ đá Vanguard nằm trong thềm lục địa Việt Nam, nhưng đồng thời cũng nằm trong đường ranh giới chữ U của Trung Quốc. Hai là, như đã thể hiện rõ ở bản đồ 2, biển ĐNA sẽ là một hồ nước không thể chối cãi của Trung Quốc nếu đường ranh giới chữ U của Trung Quốc được chấp nhận. Chấp thuận yêu sách của Trung Quốc về quyền cấm tàu và máy bay quân sự nước ngoài đi qua vùng đặc quyền kinh tế của Trung Quốc là chấp nhận rằng Trung Quốc có được quyền lực quân sự hiếm có để kiểm soát Biển ĐNA.

Sau tuyên bố chính thức về đường chữ U, Trung Quốc thực hiện nhiều cuộc diễn tập Hải quân lớn và liên tục tại Biển Đông,[12] một phần để thử sức mình, nhưng phần lớn là nhằm hù dọa các nước về sực mạnh quân sự của mình. Sau khi không thấy phản ứng của các cường quốc, Trung Quốc tiến xa hơn, tuyên bố chính thức coi biển ĐNA là “lợi ích cốt lõi” của họ, giống như Đài Loan, Tây Tạng mà họ sẵn sàng dùng võ lực để bảo vệ.[13] Một sĩ quan Trung Quốc giấu tên ở Quảng Châu, trả lời trong một cuộc phỏng vấn với giọng vừa hiếu chiến nhưng cũng khá thực tế là “vài hòn đảo ở Nam Sa và Tây Sa hiện bị các nước khác chiếm đóng…Hiên nay, có vẻ như không có biện pháp giải quyết nào khác ngoài việc dùng vũ lực. Điều này chắc chắn sẽ dẫn đến các cuộc chiến tranh trường kỳ. Các đảo này nằm xa lục địa, nhiều cái không người ở, cho nên giả dụ chúng tôi chiếm lại được thì cũng khó bảo vệ.”[14] Chính sách của Đặng Tiểu Bình qua câu nói thao quang dưỡng hối [韬光养晦, tao quang yang hui], có nghĩa là dấu sáng, nuôi cơ hội, phải chăng đã lỗi thời? Cơ hội mới này phải chăng là khả năng làm bá chủ biển ĐNA hay bị thế giới lên án là một cường quốc hiếu chiến vô trách nhiệm?

Điều này đẩy Mỹ phải thay đổi chính sách về Biển ĐNA. Trong Diễn Đàn Khu vực ASEAN (ARF) diễn ra ở Hà Nội vào ngày 22 và 23 tháng 7 năm 2010, Ngoại trưởng Mỹ Hellary Clinton đã khẳng định “Mỹ có lợi ích quốc gia trong việc tự do lưu thông hàng hải, tự do tiếp cận các vùng biển ở châu Á và tôn trọng luật pháp quốc tế tại Biển Đông“. Mỹ cũng cho rằng tìm kiếm giải pháp tranh chấp lãnh thổ là “ưu tiên ngoai giao hàng đầu” và khẳng định Mỹ “ “sẵn sàng hổ trợ cho đàm phán đa phương nhằm giải quyết các yêu sách đối kháng về đảo.” và coi Calling the resolution of the territorial disputes “a leading diplomatic priority,”[15], [16] Bài diễn văn đã được 11 nước lớn khác tham dự ủng hộ.[17] Quan điểm mới của Mỹ là nhằm trả lời thách thức của Trung Quốc. Trung Quốc tỏ ra bất ngờ về thái độ của Mỹ.

Dù sao đây là cuộc đối đầu dài lâu mang tính chiến lược vì an ninh kinh tế và quốc phòng của các nước phương Tây và các đồng minh của họ ở châu Á. Nó khác hẳn với cuộc chiến tranh ở Afghanistan chỉ mang tính cục bộ chống khủng bố. Cuộc đối đầu này có thể rất tốn kém cho Mỹ vì Mỹ phải tập trung không chỉ xây dựng sức mạnh hải quân mà cón sức mạnh quân sự ở đất liền. Cuộc đối đầu nhằm cân bằng sức mạnh mang tính phiêu lưu của Trung Quốc, dù mang tính chất gìn giữ hòa bình, sẽ khó thực hiện dài lâu nêu dân chúng thế giới, đặc biệt là dân chúng Mỹ và dân chúng ASEAN không ủng hộ. Thế của Mỹ sẽ yếu đi nếu các nước ASEAN không đạt được một thỏa thuận nào quan trọng nhằm chặn đứng hành động bạo lực của Trung Quốc, thí dụ như việc luật hóa được “Tuyên bố về Hành vi của Các bên ở Biển Nam Trung Hoa” ra đời năm 2002.[18]

Và đằng sau đề nghị hợp tác của Trung Quốc

Để che giấu mối đe dọa đó, Trung Quốc luôn kêu gọi hợp tác trong việc khai thác chung các nguồn tài nguyên. Lần đầu tiên Trung Quốc đưa ra đề nghị với Philippines mà sau đó Việt Nam cùng tham gia Thỏa thuận thăm dò địa chấn hải dương chung ở một số khu vực của biển Nam Trung Hoa, gọi tắt là JMSU 7/2005. Thỏa thuận ba bên này giữa Philippines, Trung Quốc và Việt Nam nhằm thăm dò trữ lượng dầu và khí ở Biển Nam Trung Hoa đã hết hiệu lực vào tháng 7/2007 và không được ký lại khi Chính phủ Philippines phải đối mặt với sự phản đối gay gắt từ phía Nghị viện và báo chí nước này.[19] Ai cũng có thể dễ thấy là không thể hợp tác trên cơ sở là các nước phải chấp nhận chủ quyền trên toàn Biển ĐNA của Trung Quốc.

Tham vọng kiểm soát biển Đông Nam Á

Với mục tiêu đảm bảo cho tham vọng kiểm soát biển ĐNA của Trung Quốc, Hải quân Trung Quốc đã xây dựng căn cứ tàu ngầm tại đảo Hải Nam, có khả năng đáng kể trong việc gài mìn trong biển, chương trình chống tên lửa đạn đạo, và phát triển và đầu tư công nghệ quân sự được thiết kế để thách thức hải quân Mỹ tiếp cận vào vùng biển Đông Á, và có kế hoạch xây dựng các tàu sân bay.[20], [21]

Chiến lược được Trung Quốc đưa ra rõ ràng nhằm bao quanh biển ĐNA như vùng lãnh thổ của Trung Quốc và ngăn chặn những lực lượng bên ngoài xâm nhập vào vùng nước được nước này yêu sách chủ quyền. Đồng thời, mục tiêu của chiến lược này là ngăn cấm các quốc gia như Việt Nam đánh bắt cá trong vùng hình chữ U, và trên thực tế Trung Quốc đã triển khai thực hiện từ tháng 5/2009. Đây là hành động chuẩn bị cơ sở cho việc khai thác tài nguyên tích cực trong đường ranh giới chữ U với sự bảo vệ của hải quân Trung Quốc.

Cách diễn giải “độc đáo” luật biển quốc tế của Trung Quốc liên quan đến chính quyền của quốc gia ven biển nhằm hạn chế hoặc ngăn cấm các hoạt động quân sự nước ngoài ở vùng đặc quyền kinh tế là một phần trong kế hoạch nhắm tới của Trung Quốc là thực hiện độc quyền kiểm soát quân sự của Trung Quốc tại không gian biển bên trong đường chữ U. Sự kiểm soát này tương tự như sự kiểm soát để thực hiện chủ quyền đối với lãnh hải Trung Quốc” [22]

Rõ ràng hơn, Đô đốc Timothy Keating, Tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương của Hoa Kỳ đã nói về cuộc gặp gỡ Đô đốc Trung Quốc năm 2009 như sau:

” … khi chúng tôi – Trung Quốc xây dựng tàu sân bay, liệu chúng ta có thể đưa ra một thỏa thuận: Hoa Kỳ sẽ ở phía đông của Hawaii, chúng tôi sẽ ở lại phía tây của Hawaii và chúng tôi có thể giúp Mỹ tiết kiệm thời gian và chi phí trong việc di chuyển tới tất cả các đường ở phía tây Thái Bình Dương. Các bạn sẽ cho chúng tôi biết điều gì đang diễn ra và các bạn đang ở đâu, và chúng tôi sẽ thông tin về những gì đang xảy ra và vị trí của chúng tôi. Tất cả mọi thứ sẽ thật tuyệt. Tôi đã từ chối lời đề nghị của ông ta.” [23]

Thật khó để hình dung Trung Quốc, quốc gia đã phải chịu nhiều đau khổ từ chủ nghĩa đế quốc Nhật và phương Tây có thể sử dụng cách tiếp cận tương tự để đe dọa các quốc gia khác như cách Trung Quốc đã làm trước khi phương Tây đến châu Á.

Sự khăng khăng được lặp lại nhiều lần của Trung Quốc rằng Trung Quốc có chủ quyền “không thể thương lượng” – “non-negotiable”[24] và “không thể tranh cãi” [25] đối với các quần đảo ở biển ĐNA không nhất quán với lời kêu gọi của Trung Quốc về việc khai thác chung ở vùng biển ĐNA với các bên tuyên bố khác, trừ khi điều Trung Quốc thực sự muốn là khu vực khai thác chung là nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của các quốc gia ĐNA, nơi mà vùng đặc quyền kinh tế của các nước này chồng lấn với đường ranh giới chữ U do Trung Quốc tuyên bố. Đường ranh giới chữ U không dựa trên cơ sở lịch sử cũng như pháp lý nào.

Bài viết này sẽ tập trung nghiên cứu các vấn đề chính liên quan đến nội dung khái quát trên, nhằm đánh giá các yêu sách chủ quyền trên cơ sở các văn bản lịch sử và luật pháp quốc tế. Không có tài liệu lịch sử mới nào được giới thiệu trong bản nghiên cứu này. Tuy nhiên, một sự nghiên cứu kĩ lưỡng hơn đối với các văn bản có sẵn hiện nay có thể cung cấp những sự diễn giải mới mẻ.

Cùng với việc nghiên cứu kĩ lưỡng luật pháp quốc tế, việc kiểm tra lại các văn bản lịch sử hi vọng sẽ mở ra những cuộc đàm phán nhiều bên một cách hợp lý hoặc đưa tới phân xử quốc tế dựa trên cơ sở thực tiễn, hơn là những hành động mang đậm chủ nghĩa dân tộc. Ít nhất, với các nước thành viên ASEAN, những quốc gia sẵn sàng đàm phán và những người không có động lực trong việc kiểm soát biển ĐNA, việc xem lại thực tế có liên quan hi vọng sẽ giúp dẫn tới một giải pháp công bằng và hợp lý.

Nguồn: Thời Đại Mới

Chú thích:

[1] Yves Lacoste đề nghị đặt tên lại trong “Les deux Méditerranées”, Hérodote, Revue de géographie et de géopolitique, no. 27, 1982, p. 5.

[2] T Clive Schofield and Ian Storey, The South China Sea Dispute: Increasing Stakes and Rising Tensions, Jamestown Foundation, November 2009, p. 7-8.

[3] Có 3 loại bản đồ các học giả Trung Quốc thường vẽ trong quá khứ. Loại thứ nhất là bản đồ Trung Quốc, phản ánh cương vực thực của Trung quốc thí dụ bản đồ Đại Thanh Nhất thống Toàn đồ. Loại hai là như Thanh bản Thiên hạ Toàn đố, phản ánh cả vùng mà Trung Quốc coi là vùng ảnh hưởng hay phiên thuộc của mình. Và cuối cùng là loại ba ghi lại các cuộc thám hiểm của người Trung Quốc.

[4] Đây là một trong những lập luận chính của Tonnesson. Coi Stein Tonnesson, The South China Sea in the Age of European Decline,Modern Asian Studies, vol. 40, no. 1, 2006.

[5] Coi: The Issue of South China Sea, Ministry of Foreign Affairs People’s Republic of China June 2000, trên mạng của Federation of American Scientist: http://www.fas.org/news/china/2000/china-000600.htm

[6] Hội nghị phủ quyết với 48 phiếu chống và 3 phiếu thuận đề nghị của Liên Xô với 13 chỗ bổ sung, 1 trong những điều bổ sung là Nhật phải trao trả Hoàng Sa và Trường Sa (Paracels and the Spratlys) cho Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc. Coi James William Morley, The Soviet-Japanese Peace Declaration, Political Science Quarterly, Summer 1957.

[7] International Recognition Of China’s Sovereignty over the Nansha Islands. http://www.fmprc.gov.cn/eng/topics/3754/t19232.htm

[8] Stein Tonnesson, The South China Sea in the Age of European Decline, Modern Asian Studies, vol. 40, no. 1, 2006, p. 47.

[9] Điều trần của Phụ tá Thứ trưởng Quốc phòng (Deputy Assistant Secretary of Defense) Robert Scher trước Tiểu ban Đông Á và Thái Bình Dương, Ban Ngoại giao, Thượng viện Mỹ, 15 tháng 6 năm 2007.

[10] Điều trần của Phụ tá Thứ trưởng Ngoại giao Scot Marciel trước Tiểu ban Đông Á và Thái Bình Dương, Ban Ngoại giao, Thượng viện Mỹ, 15 tháng 6 năm 2007.

[11] Coi Peter Kien-Hong Yu, “The Chinese (Broken) U-shaped line in the South China Sea: Points, Lines and Zones”, Current Southeast Asia, vol 25, no. 3, 2003. trang 407. Về đường chữ U có 9 điểm gãy do Bai Meichu , một viên chức của Cộng Hòa Dân quốc Trung Hoa (bây giờ là Đài Loan) tự nghĩ ra năm 1947, Yu viết: “Rất có thể là anh ta bị thúc đẩy bới bản năng chiếm hữu từ đáy lòng như ngạn ngữ đã nói, ý tưởng đã là 9 phần mười của luật). Thật vậy, Bai thấy Pháp chiềm hữu (từ tháng 7 năm 1933 6 đảo ở Nam Sa (hay Spratly) và đã nói hay có thể coi là tự cảm thấy bằng cách nào đấy phải bảo vệ chủ quyền của Trung Quốc.”

[12] Carl Thayer, Security Challenges, Vol. 6, No. 2 (Winter 2010), pp. 69-84.

[13] China Warns U.S. to Stay Out of Islands Dispute,http://www.nytimes.com/2010/07/27/world/asia/27china.html?_r=1

[14] Wu Zhong, A Daring Departure from Dang, Asia Times 6 August 2010. http://www.atimes.com/atimes/China/LH06Ad02.html

[15] U.S. Challenges China on Island Chain. http://www.nytimes.com/2010/07/24/world/asia/24diplo.html?hp

[16] Roiling the South China Sea. http://search.japantimes.co.jp/cgi-bin/ed20100805a1.html

[17] Clinton stand on a Chinese ‘core interest’ causes tension at forum, South China Morning Post July 24, 2010. http://www.viet-studies.info/kinhte/clinton_and_chinese_core_interest.htm

[18] Coi http://www.aseansec.org/13163.htm

[19] Coi Jess Diaz , DFA bucks House bill on RP Spratly claim, Philippine Star, 13 Tháng 3 năm 2008

[20] Coi báo cáo toàn diện về tăng cường quân sự của Trung Quốc của Richard Fisher, Jr. The Implications of China’s Naval Modernization for the United States, Testimony before the U.S. –China Economic and Security Review Commission, 11 tháng 6 năm 2009. http://www.strategycenter.net/research/pubID.199/pub_detail.asp.

[21] Điều này được Keating, Đô đốc Hải quân Mỹ xác nhận, coi “Asia-Pacific U.S. Military Overview”, http://2002-2009-fpc.state.gov/113312.htm.

[22] Điều trần của Phó Giáo sư Peter Dutton, Viện China Maritime Studies Institute, U.S. Naval War College trước Tiểu ban Đông Á và Thái Bình Dương, Ban Ngoại giao, Thượng viện Mỹ, 15 tháng 7 năm 2009.

[23] Coi Đô đốc Keating ở trên.

[24] Tháng 7 năm 1977, Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Huang Hua xác định lại rằng chủ quyền Trung Quốc ở Biển Nam Trung Hoa là điều “không thể thương lượng”: “cương vực Trung Quốc kéo dài tới tận bãi cạnJames Shoals, gần Borneo của Mã lai…Tôi nhớ là khi còn nhỏ đi học, tôi đã đọc về những đảo này trong sách địa lý. Lúc đó, tôi chưa bao giờ nghe thấy ai nói là nó không thuộc Trung Quốc…Người Việt cho rằng họ có chủ quyền ở đó.Cứ để họ nói kiểu đó. Nhiều lần họ đề nghị ta thương thuyết nhưng ta luôn luôn từ chối…Về chủ quyển những hòn đảo, chúng ta có bằng chứng lịch sử có thể kiểm tra. Không cần gì thương thuyết vì chúng thuộc Trung Quốc.” (Beijing Review, 22 tháng 7 năm 1977).

[25] Coi The Issue of South China Sea,đd; và “China reiterates sovereignty in South China Sea”, China Daily, 30 tháng giêng năm 2010 trên http://www.chinadaily.com.cn/china/2009-02/03/content_7442878.htm