"Hèn mà còn nhận ra mình là thằng hèn, là hèn tử tế. Hèn mà ngậm miệng ăn tiền là hèn nhơ bẩn.
Hèn mà ngậm máu phun người là hèn bất nhân. Hèn bán đất bán nước thì trời tru đất diệt"
(Phạm Chuyên)

Mittwoch, 15. September 2010

'Sở hữu toàn dân', cơ hội béo bở cho lợi ích nhóm

PGS.TS Phạm Duy Nghĩa, khoa Luật & chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright, ĐH Kinh tế TP.HCM

Lê Nhung

14/09/2010 - Theo PGS.TS Phạm Duy Nghĩa (Đại học Kinh tế TP.HCM), cái mũ sở hữu toàn dân đã tạo cơ hội cho khai thác lợi ích nhóm và tư nhân hóa tài sản quốc gia diễn ra trên diện rộng và khá nhanh. Cần xác lập sở hữu quốc gia và sở hữu của chính quyền địa phương thay cho khái niệm sở hữu toàn dân.

Trao đổi bên lề Diễn đàn Đối tác pháp luật về tăng cường tiếp cận công lý do UNDP tổ chức hôm qua (13/9), ông Nghĩa nói:

20 năm cải cách ở Việt Nam đã bảo hộ tương đối tốt sở hữu tư nhân, nhất là ở các đô thị. Tuy nhiên, những vấn đề khác cần thảo luận, chẳng hạn sở hữu toàn dân với đất đai cần thảo luận từ khía cạnh việc bảo vệ quyền lợi mong manh của người nông dân trước các thế lực nhòm ngó.

Thứ hai, sở hữu công cộng bao gồm bờ biển, hầm mỏ, không khí công cộng, là tài sản quốc gia để lại nhưng hiện nay đang được khoanh vùng tư nhân hóa rất nhanh.

Lĩnh vực thứ ba là sở hữu các tập đoàn nhà nước, hiện cũng đang là vấn đề.

Như chúng tôi kiến nghị nhiều lần, phải có khái niệm tốt hơn khái niệm sở hữu toàn dân, chúng tôi muốn chuyển đổi khái niệm sở hữu toàn dân thành sở hữu của chính quyền, của quốc gia, chia hai cấp: chính quyền TƯ và chính quyền địa phương.

Tư hữu hóa

Lý do vì sao, thưa ông?

- Sở hữu toàn dân là một khái niệm chính trị, khi triển khai vào các khái niệm pháp lý, không xác định ai có chủ quyền thực sự.

Khái niệm chính trị đó không có hại thì không sao. Nhưng dưới cái mũ sở hữu toàn dân nó, đã gây ra nhiều bất công, làm cho tài sản rơi vào tay những người có ảnh hưởng.

Điều bỏ ngỏ trên làm các tài nguyên khoáng sản, tài sản đầu tư vào doanh nghiệp nhà nước, nhất là tập đoàn, không rõ ai là chủ sở hữu thực sự, tạo cơ hội cho khai thác lợi ích nhóm và tư nhân hóa tài sản quốc gia diễn ra trên diện rộng và khá nhanh, khi quyền lực được tản từ chính quyền Trung ương xuống các tập đoàn kinh tế và UBND các tỉnh.

Cơ chế bảo hộ sở hữu tư nhân chưa hiệu quả, chi phí tiền bạc và thời gian để thực quyền tài sản là lớn so với thu nhập của người dân. Chưa minh định rõ sở hữu công cộng với cơ sở hạ tầng.

Lợi ích của việc thay đổi quan niệm chính trị “sở hữu toàn dân” thành một quan niệm pháp lý rạch ròi hơn như ông nói là gì?

- Ở đây chúng tôi hướng đến khái niệm có thể dùng được để bảo vệ lợi ích quốc gia, để phúc lợi được chia công bằng. Nhà nước chỉ là một thành tố trong quốc gia.

Phân quyền rõ, tài sản gì thuộc chính quyền địa phương, tài sản gì thuốc quốc gia. Ví như bờ biển, rừng… là sở hữu quốc gia.

"Sở hữu quốc gia là một hình thức sở hữu công quan trọng, bao gồm vốn của quốc gia đầu tư vào các công ty thương mại và tổ chức cung cấp dịch vụ công, rừng, hầm mỏ, mặt nước và các nguồn tài nguyên khác. Điều 7 Hiến pháp cần được sửa lại để ghi nhận sở hữu quốc gia, sở hữu của chính quyền các tỉnh, huyện, xã".

Khi đó, toàn bộ tài sản công sẽ thuộc một cơ quan quản lý công sản cụ thể. Một bộ, một sở không thể bán trụ sở của mình, không thể coi công sản là sở hữu của mình. Việc một sở tại địa phương mới đây tư nhân hóa trụ sở của mình là quá lạm quyền bởi sở chỉ là cơ quan giúp việc cho chính quyền địa phương. Chỉ có cơ quan quản lý công sản cấp tỉnh mới có quyền này.

Việc chuyển đổi như vậy sẽ giúp minh định rõ hơn trách nhiệm của Chính phủ với khối tài sản quốc gia. Nếu Chính phủ không quản lý được thì Quốc hội sẽ chất vấn. Càng không nên để cho Chính phủ có quá nhiều quyền trong việc quản lý, sử dụng tài sản quốc gia.

Nói cách khác, sở hữu toàn dân với cách quản lý của chính phủ, bộ, các ngành đã cho nhiều ông được chia những quyền đó.

Ví dụ, một bộ lại giao cho hai ông làm chủ tịch hai tập đoàn. Hai người đó có quyền biểu quyết khổng lồ với khối tài sản của hàng ngàn năm tích lũy như bờ biển hay hải đảo.

Đó là bi kịch đã diễn ra trong 5 năm vừa qua. Khối lượng công sản đã rơi vào tay tư nhân tăng lên khủng khiếp. Hiện tượng tư hữu hóa khắp nơi với quy mô lan rộng.

Còn đối với tổng công ty và tập đoàn thì sở hữu phải được tách khỏi chính phủ và các bộ.

Luật không bất biến

Nhưng khái niệm sở hữu toàn dân đã được nêu trong Hiến pháp. Để thay đổi thì phải sửa Hiến pháp?

- Luật sinh ra là để phục vụ con người. Luật không phải là những thứ bất biến. Nếu luật pháp không hợp với thời đại nữa thì phải sửa.

Nếu không sửa được Hiến pháp thì phải giải thích Hiến pháp, ban hành đạo luật cắt nghĩa Hiến pháp.

Nếu điều đó khó sửa quá thì đưa ra những công cụ thay thế, cho vào đó những linh hồn mới, rồi lại giải thích theo nghĩa khác. Cuộc cải cách kinh tế của Việt Nam ngay từ những năm 1988 - 1989 đã xuất hiện khu vực kinh tế tư nhân, nhưng có phải sửa Hiến pháp 1980 ngay đâu. Cho mãi đến 1992 mới sửa Hiến pháp.

Ông có thể dẫn chứng một ví dụ về việc chuyển từ sở hữu toàn dân sang sở hữu quốc gia là thế nào?

- Ví dụ một vị lãnh đạo được nhận quà. Khi xem đó là sở hữu quốc gia thì trong khi đương nhiệm, ông cứ treo món quà đó ở nhà mình. Nhưng khi hết nhiệm kỳ thì phải để lại món quà đó ở phòng lưu niệm. Tương tự với nhà công vụ. Khi tại chức thì ở, khi hết chức là phải trả lại.

Khi thảo luận về Luật đất đai sửa đổi, nhiều đại biểu Quốc hội cũng nói “quyền sở hữu toàn dân là một hư quyền” nhưng dường như chúng ta vẫn ngại thay đổi khái niệm này?

- Luật pháp phản ánh ý chí người cầm quyền, phản ánh nhận thức xã hội và sức ép của người dân lao động, những người mất đất, sức ép của những nhà tư tưởng muốn cải cách đất nước.

Nếu dân không hiểu, quan không có trách nhiệm, học giả không nghiên cứu thì không dám sửa.

Chúng ta cần những đối thoại giữa chính quyền và doanh nghiệp. Lắng nghe ý kiến từ cộng đồng doanh nghiệp và người dân. Chừng nào dân còn không hiểu biết và không nói, doanh nghiệp sống dựa vào lợi ích thừa thãi của doanh nghiệp nhà nước, thì chừng ấy chúng ta không cần sửa luật

Nhưng như ông quan sát, các nhóm lợi ích hiện đang tác động thế nào lên hoạch định chính sách?

- Khác với cách đây 10 năm, hiện nay các nhóm lợi ích không che giấu vai trò ngày càng tích cực của họ trong việc hoạch định chính sách. Các tập đoàn dễ dàng có cuộc gặp với Thủ tướng, với Chính phủ, thường xuyên tham gia đề xuất chính sách.

Do vậy, nhiều chuyên gia đánh giá, pháp luật kinh tế hiện nay dành lợi thế đầu tiên cho các cơ quan quản lý nhà nước, tiếp đến là các tập đoàn và doanh nhân. Những đối tượng khác luôn bị yếu thế.

Hiện nay đi mua một căn hộ thì người mua hoàn toàn không được đàm phán với chủ đầu tư về hợp đồng mua bán, phương thức thanh toán. Cuộc chơi luôn có lợi thế về người có tiền và có quyền lực.

Cái mà nhà nước cần làm là xây dựng những chính sách can thiệp có hiệu quả. Nhà nước tạo khuôn khổ pháp lý cho các đơn vị cạnh tranh lành mạnh. Nhà nước không nên bảo lãnh, đi vay vốn, làm thay doanh nghiệp.

"Minh bạch hóa quy hoạch đất, xác lập công bằng cho nông dân đối với đất nông nghiệp. Nhà nước chỉ thu hồi đất của nông dân vì mục đích công cộng (an ninh quốc phòng, giao thông). Trong tất cả các dự án có tính thương mại khác (chuyển đất nông nghiệp thành đất ở, kinh doanh, xây trường học, bệnh viện) thì chủ đầu tư phải thương lượng để mua lại quyền sử dụng đất của nông dân theo giá thỏa thuận".