"Hèn mà còn nhận ra mình là thằng hèn, là hèn tử tế. Hèn mà ngậm miệng ăn tiền là hèn nhơ bẩn.
Hèn mà ngậm máu phun người là hèn bất nhân. Hèn bán đất bán nước thì trời tru đất diệt"
(Phạm Chuyên)

Freitag, 5. November 2010

Chuyện Quan Thái Thú

Lữ Giang

Trong một cuốn băng của Toà Bạch Ốc ghi cuộc nói chuyện giữa Tổng Thống Kennedy và Đại Sứ Henry Cabot Lodge ngày 4.11.1963, Tổng Tổng Kennedy đã tuyên bố ông chịu trách nhiệm cá nhân về cái chết của ông Diệm và nói thêm rằng ông Lodge có khuynh hướng loại bỏ ông Diệm khỏi chức vụ. Ông Lodge đã bênh vực cho vai trò của mình. Ông nói:
“Các hành động của chúng ta không phải là ‘thực dân’ và khi bà Nhu kết án tôi hành động giống Toàn Quyền Đông Dương, điều đó không nói lên sự thật”. 
 
Hồi đó báo chí ở Sài Gòn thường công khai gọi ông là “Quan Thái Thú”.
 
Sử chép rằng Hán Vũ Đế (156 – 87 trước công nguyên) thấy nước ta chưa biết văn hóa, sai các quan Thái Thú sang cai trị phải dạy bảo. Trong số ấy có ba người nổi tiếng: Tích Quang, Thái Thú quận Giao Chỉ, mở trường học, dậy dân biết lễ nghĩa; Nhâm Diên, Thái Thú quận Cửu Chân, xây trường học, dạy dân luân lý, phép giá thú, sinh con biết họ và nòi giống; và Sĩ Nhiếp, Thái Thú Giao Châu, mở học đường, giảng Kinh truyện, được suy tôn là Nam Bang học tổ. Như vậy là nước ta bắt đầu học chữ Hán và Nho giáo từ thời Bắc thuộc.
 
Henry Cabot Lodge, có quyền lực vô giới hạn. Ngoài bất chấp lệnh của Thổng Thống Mỹ, còn lưu manh xảo trá hơn các quan Thái Thú của Tàu ngày xưa nhiều.
 
MỘT ÂM MƯU THÂM ĐỘC
 
Để gài Washington vào kế họach giết ông Ngô Đình Cẩn, lúc 9 giờ ngày 3.11.1963, Tòa Lãnh Sự Mỹ ở Huế đã gởi về Bộ Ngoại Giao một công điện nói rằng đã tìm thấy mồ chôn tập thể, hầm vũ khí và tài liệu Việt Cộng chôn trong khu nhà ông Cẩn. Hậu quả của chuyện này là có nhiều ngàn người đã đến bao vây nhà ông Cẩn và muốn tấn công. Từ những sự kiện trên, Tòa Lãnh Sự Huế nói rằng việc cấp nơi trú ẩn cho ông Cẩn “là điều thất nhân tâm ở đây, và có thể đưa đến hậu quả nghiêm trọng đe dọa tư thế, tài sản và sinh mạng người Mỹ ở Huế.”
 
Nghe các báo cáo này, Tướng Harkins, Chỉ Huy Trưởng Viện Trợ Quân Sự tại Việt Nam rất ngạc nhiên. Ông đã hỏi lại Tướng Trần Văn Đôn rồi lúc 5 giờ 17 phút chiều 5.11.1963, ông đã gởi cho Tướng Taylor, Tham Mưu Trưởng Liên Quân, một công điện cho biết ông có hỏi Tướng Đôn về trường hợp ông Ngô Đình Cẩn, Đôn nói rằng các đơn vị Quân Đoàn I đang bảo vệ ông ta và Đôn đang xem xét việc đưa ông ta vào Sài Gòn để bảo vệ an toàn. Tướng Harkin có hỏi Tướng Đôn về các mộ được báo cáo tìm thấy trong vùng nhà ông Cẩn, Tướng Đôn cười và nói nó không liên hệ gì đến việc ông Cẩn làm cả. Tướng Đôn nói ông biết ông Cẩn rất rõ, và khi làm Tư Lệnh Quân Khu I, ông đã đến thăm ông Cẩn nhiều lần. Ông biết những ngôi mộ đó ở đâu và nó đã có ở đó trong nhiều năm. Những ngôi mộ đó thuộc về những gia đình sống trong vùng xung quanh trước khi khu đó trở thành nơi cư trú của ông Cẩn.
[FRUS 1961 – 1963. Volume IV, tr. 569 – 570].
 
Thế nhưng, sau khi ông Johnson mới lên làm Tổng Thống thay thế Kennedy, ông Lodge đã về trình diện và tiếp tục báo cáo bố lếu bố láo.
 
Trong cuộc họp lúc 3 giờ chiều ngày 24.11.1963 tại Executive Office Building ở Washington, có sự hiện diện của Tổng Thống Johnson, Đại Sứ Cabot Lodge đã báo cáo về tình hình Việt Nam rất tốt đẹp sau ngày đảo chánh. Tiếp theo, ông nói ông muốn gặp Đức Giáo Hoàng vào ngày thứ tư (bỏ một đoạn không được giải mã) vì ông thấy phong trào chống Kitô giáo ở Việt Nam đang lên. 
 
Mặc dầu Tướng Harkins đã kiểm chứng và cho biết báo cáo của Tòa Lãnh Sự Huế là báo cáo láo, ông Lodge vẫn nói rằng Giám Mục Ngô Đình Thục đã dính vào những vụ ngược đãi liên quan đến việc giam giữ một số lớn người, trong đó có ba linh mục Công Giáo. Còn ông Cẩn cũng đã dính vào những hoạt động khác nhau trong việc ngược đãi và hành quyết những cá nhân, và trong khu vườn của mình, Cẩn có một khu đất chôn các nạn nhân của mình.
 
Biên bản ghi rằng những lời của ông Lodge đầy vẽ lạc quan, hy vọng, và tạo cho Tổng Thống cảm tưởng rằng chúng ta đang trên đường chiến thắng. Tổng Thống Johnson nghe xong đã nói rằng “the Ambassador was the Number One man” (Ông Đại Sứ là Người Số Một)!
[FRUS 1961-1963. Volume IV, tr. 635-637]
 
Khi trở lại Việt Nam, ông chỉ đạo Tướng Khiêm và Tướng Khánh làm “chỉnh lý” loại nhóm Dương Văn Minh, và ra lệnh cho Tướng Nguyễn Khánh ban hành một đạo luật đặc biệt để giết ông Cẩn!
 
MUỐN LẬP CHẾ ĐỘ BẢO HỘ!
 
Mặc dầu báo cáo ngon lành như đã nói trên, khi “giặc thầy chùa” và Đại Việt nổi lên chống đối Nguyễn Khánh gây ra các chính biến liên tục, Đại Sứ Lodge đã nói với Bộ Ngoại Giao rằng phải làm cho Nam Việt Nam từ bỏ độc lập và đặt dưới chế độ bảo hộ của Hoa Kỳ để đem lại sự ổn định của chính phủ. Nếu không thì hoặc là tăng cường sự can thiệp về quân sự của Hoa Kỳ, hoặc là Mỹ bỏ Miền Nam hoàn toàn.
[South Vietnam be made to relinquish its independence, and it be made a protectorate of the United States so as to bring governmental stability. The alternatives, he warned, were either increased military involvement by the U.S., or else total abandonment of South Vietnam by America].
Khi “giặc thầy chùa” lên đến cao điểm, làm cho tình hình bất ổn hoàn toàn, ông nói con đường duy nhất để báo vệ các chương trình bình định của Nam Việt Nam là thành lập một nước theo chế độ cảnh sát trị từ ở Nam Việt Nam gióng như chế độ Hồ Chí Minh (a police state out of South Viet Nam similar to the Ho Chi Minh regime).
 
Nói tóm lại, những gì ông Lodge đưa ra để biện minh cho việc phải lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm, đều được ông đòi hỏi phải áp dụng lại sau khi chế độ này sụp đổ và còn đòi hỏi phải làm mạnh hơn.
William Averell Harriman lúc đầu chỉ là Phụ Tá Bộ Trưởng Ngoại Giao về Viễn Đông Sự Vụ (1961-1963), sau lên làm Thứ Trưởng Ngoại Giao về Chính Trị Sự Vụ (1963-1965), nhưng nhiều người gọi ông là Bộ Trưởng Thuộc Địa, vì ông đã hành xử như Miền Nam Việt Nam là một xứ thuộc địa của Mỹ. Chính ông đã quyết định và chỉ đạo việc lật đổ và giết ông Diệm, vượt lên trên quyền hành của Tổng Thống Kennedy. Đại Sứ Cabot Lodge và Lucien Conein chỉ là cấp thừa hành của ông ta. Tuy nhiên, sau khi lật đổ và giết ông Diệm, nhìn thấy một miền Nam tan nát, ông đã nhìn nhận:
“As you look back on it, Diem was better than the chaotic condition which followed him”.
(Khi bạn nhìn lại nó, Diệm tốt hơn tình trạng hổn loạn theo sau ông ta.)
[Averell Harriman Oral History, JFK1]
 
ÉM NHẸM PHÚC TRÍNH LHQ
 
Ngoài việc lật đổ và giết gia đình họ Ngô, Cabot Lodge còn làm một chuyện mờ ám khác là tìm cách ém nhẹm phúc trình của Phái Đoàn LHQ điều tra về vụ Phật Giáo Việt Nam vì nó phô bày những sự dối trá do chính phủ Hoa Kỳ đã toa rập với phong trào đấu tranh của Phật Giáo Việt Nam tạo dựng ra để đánh lừa dư luận thế giới.
 
Như chúng ta đã biết, chính Đại Sứ Cabot Lodge đã nhờ ông Senerat Gunewardene, Đại Sứ Tích Lan ở Liên Hiệp Quốc, một người bạn thân của Cabot Lodge khi ông còn làm Đại Sứ tại Liên Hiệp Quốc, đứng ra vận động các nước Á Phi đưa ra một bản tuyên bố lên án chế độ Ngô Đình Diệm đàn áp Phật Giáo. Đây là nguyên nhân khiến LHQ phải cử một phái đoàn đến Việt Nam điều tra. Kết quả, phái đoàn đã khám phá ra nhiều sự gian dối do CIA và nhóm Phật Giáo đấu tranh đã tạo dựng ra để đánh gục chế độ Ngô Đình Diệm. Vì thế, Đại Sứ Cabot Lodge và Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ phải tìm cách ém nhẹm bản phúc trình của phái đoàn này.
 
Cuộc điều tra kéo dài trong hai tuần lễ. Khi phái đoàn đang điều tra thì cuộc đảo chánh xẩy ra, nhưng phái đoàn vẫn làm báo cáo và đệ trình lên Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc. Bản phúc trình đã được phổ biến tại diễn đàn Liên Hiệp Quốc ngày 9.12.1963. Ngày 20.12.1963, Đại Sứ Fernando Volio Jimenez của Costa Rica đã nói với hãng thông tấn NCWC như sau:
Cảm tưởng của riêng tôi là không có chính sách kỳ thị, áp bức hay khủng bố đối với Phật Giáo trên căn bản tôn giáo. Những khai báo về phương diện này thường là nghe nói, và trình bày một cách mơ hồ và tổng quát.
“Mỗi khi một nhân chứng cố gắng tìm một bằng chứng cụ thể nào để trình Phái Đoàn, rốt cục sự kiện chỉ là một hành vi lẻ tẻ hay cá nhân. Căn cứ trên bằng chứng, chính quyền không có chủ trương chính sách chống Phật Giáo vì lý do tôn giáo.”
 
Thấy nội dung bản phúc trình nói lên những sự thật bất lợi, Đại Sứ Cabot Lodge đã vận động để bản phúc trình này đừng được đưa ra thảo luận tại Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc.
Đại sứ Hoa Kỳ tại Liên Hiệp Quốc đã trình với Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ rằng “sự công khai hóa những điều mà phái đoàn điều tra Liên Hiệp Quốc phát hiện được sẽ gây lúng túng cho chế độ mới ở Saigon gồm những người đã phục vụ dưới thời ông Diệm. Thêm nữa, một cuộc bàn cãi công khai có thể cho thấy rằng chế độ mới này cũng chẳng kém độc tài hơn chế độ cũ và cho Hà Nội và Bắc Kinh thêm một dịp tố cáo chính phủ Hoa Kỳ đính líu vào cuộc đảo chánh.”
 
Do sự vận động khéo léo của Cabot Lodge và Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, ông Gunewardene, trưởng phái đoàn điều tra, đã đề nghị xếp luôn hồ sơ vụ này.
 
MỘT NGHỊ SĨ CÓ LƯƠNG TÂM
 
Thượng Nghị Sĩ Thomas Dodd, Chủ Tịch Ủy Ban Tư Pháp Thượng Viện Hoa Kỳ, cũng đã đọc và khám phá ra những gian dối do CIA phối hợp với nhóm Phật Giáo đấu tranh và báo chí dựng lên để đánh lừa dư luận thế giới. Ông đã hỏi lại một số nhân vật trong phái đoàn điều tra, rồi viết một văn thư dề ngày 17.2.1964 gởi cho ông James Easland, Chủ Tịch Tiểu Ban Nội An của Thượng Viện, yêu cầu in bản phúc trình này ra và gởi cho các nghị sĩ biết. 

Sau đây là những đoạn chính của văn thư này:
“Vào đầu tháng 9 năm qua, lúc cuộc khủng khoảng Phật Giáo đạt cao điểm, 16 chính phủ chuyển đến Đại Hội Liên Hiệp Quốc một tuyên bố nói rằng Chính Phủ Việt Nam phạm tội “trầm trọng vi phạm nhân quyền”. Đáp lại lời buộc tội này, Chính Phủ Ngô Đình Diệm mời Liên Hiệp Quốc gởi một phái đoàn điều tra đến Việt Nam, và cam kết rằng Chính Phủ ông sẽ hoàn toàn hợp tác với phái đoàn này. Đại Hội quyết định chấp nhận lời mời này và ngày 11 tháng 10 một phái đoàn điều tra đã được lập, gồm có những đại diện của Afghanistan, Brazil, Costa Rica, Dahomey, Morocco, Ceylon, và Nepal.
“Phúc Trình của Phái Đoàn về Việt Nam, tuy được in phát trong Liên Hiệp Quốc ngày 9 tháng 12, chỉ được phổ biến rất hạn chế cho báo chí. Thật ra, nó hầu như không được báo chí biết gì đến trong hơn hai tuần sau ngày nó được công bố, đến khi vài bình luận gia tháo vát nắm được chuyện này.
“Theo tôi, bản phúc trình này hết sức quan trọng nên tôi đề nghị Tiểu Ban Nội An cho ấn hành nó để phân phát cho các Thượng Nghị Sĩ để họ biết về việc này.
“Tuy rằng bản phúc trình này chủ yếu chỉ trình bày dữ kiện - lời khai của nhân chứng và tài liệu, không đưa ra kết luận chính thức của Ủy Ban của Liên Hiệp Quốc, tôi tin rằng bất cứ người khách quan nào có đọc nó cũng phải kết luận rằng những báo cáo về [chính quyền] khủng bố Phật Giáo một cách quy mô, quá lắm chỉ là một sự thổi phồng quá mức, và ít lắm là tuyên truyền bẩn thỉu và gian lận.”
 
Tiếp đến, ông đã nhắc lại lời của Đại Sứ Fernando Volio Jimenez của Costa Rica mà chúng tôi đã trích dẫn ở trên. Ông viết tiếp:
“Được đích thân đọc bản phúc trình của Liên Hiệp Quốc, những tuyên bố đó đã làm cho tôi xúc động, và khiến tôi gọi Đại Sứ Volio để thảo luận những lời tuyên bố của ông ta chi tiết hơn...
“Đại sứ nói rằng sau hai tuần điều tra ráo riết tại Việt Nam, ông đi đến kết luận là những lời buộc tội chế độ Diệm tại Liên Hiệp Quốc không có căn bản, không chấp nhận được; ông nghĩ rằng những bằng cớ chất đống không cho thấy rằng có sự kỳ thị về tôn giáo hay xâm phạm tự do tôn giáo...
“Phái Đoàn nói rõ rằng họ đã được phỏng vấn một số lãnh đạo và thanh niên Phật Giáo mà người ta đã báo cáo là bị giết. Phái Đoàn không tìm thấy bằng chứng nào xác nhận những báo cáo đã được công bố nói rằng có những vị sư đã bị liệng từ trên các tầng lầu trong vụ Chùa Xá Lợi bị đột kích."
 
Trong phần kết luận, ông đã lên án báo chí Hoa Kỳ khá nặng nề:
“Tóm tắt, theo ý tôi, một lần nữa nhân dân Hoa Kỳ đã bị một số báo chí của họ lừa dối trầm trọng về một tình hình quốc ngoại có tính chất cốt tử đối với họ...
“Nay chúng ta lại là nạn nhân của một trò lừa dối khác, mà hậu quả là Chính Phủ Ngô Đình Diệm đã bị tiêu diệt, gây ra một tình trạng hỗn loạn sẽ làm cho cho sự ngăn chận Cọng Sản chiếm quyền khó khăn hơn.
"Quốc Hội, cũng như nhân dân Hoa Kỳ, lệ thuộc báo chí về tin tức. Ngay cả các nhân viên Chính Phủ cũng rất bị ảnh hưởng bởi những gì mà họ đọc trong báo tuy rằng họ có những nguồn tin tức đặc biệt. Cho nên nói rằng báo chí có vai trò đặt ra chính sách là rất đúng nghĩa.
“Tôi tin rằng các nhà báo sẽ làm một việc rất hữu ích nếu họ tự đặt vài câu hỏi về điểm: làm sao mà những tờ báo lớn của nước Mỹ có thể lừa dối chúng ta trầm trọng như thế trong những tình trạng nêu trên.”
 
Ông mong rằng “tất cả các thành viên của Thượng Viện sẽ tìm được thì giơ để đọc bản phúc trình này và suy ngẫm về về những hàm ý của nó”.
 
Mặc dầu có lời cảnh cáo của Thượng Nghị sĩ Thomas Dodd, bản phúc trình của phái đoàn Liên Hiệp Quốc vẫn không được in ra và phổ biến cho mọi người biết. 
 
Chúng tôi đã dịch xong bản phúc trình này, dày khoảng 1000 trang, gồm cả bản dịch bằng tiếng Việt lẫn nguyên văn bản chính bằng tiếng Anh, để đưa ra ánh sáng những sự thật đã bị dấu diếm rất kỷ trong suốt 47 năm qua. Chúng tôi mong rằng, nhờ đọc tài liệu này, các thế hệ tới của thế giới, nhất là của Việt Nam và Hoa Kỳ, sẽ biết rõ hơn đâu là sự thật.
 
PHỊA SỬ ĐÃ BỊ LỘT MẶT NẠ
 
Trong 47 năm qua, Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ và CIA đã nhiều lần vẽ lại lịch sử để tạm thời che đậy những chính sách thô bạo của Hoa Kỳ. Đúng như Thượng Nghị Sĩ Thomas Dodd đã nói, giới truyền thông và một số sử gia cũng đã toa rập với Bộ Ngoại Giao và CIA để làm chuyện đó.
Phía Việt Nam, phe Phật Giáo đấu tranh dĩ nhiên là phải dùng phịa sử để che đậy những sai lầm của họ, đưa Phật Giáo và Miền Nam vào những ngày đen tối và cuối cùng Miền Nam bị mất. Từ những cao tăng như Thích Trí Quang, Thích Đức Nhuận, Thích Nhất Hạnh... đến các thành phần cắc ké như Hoàng Trọng Miên, Nguyễn Thanh, Đỗ Mậu, Vũ Ngự Chiêu, Nguyễn Mạnh Quang, Lê Cung (Tiến sĩ sử ở Huế!)... đều viết phịa sử hay viết sử “theo lề đường bên phải”. 
 
Cũng có người Mỹ đã viết phịa sử kinh hoàng không khác gì người Việt, chẳng hạn như cuốn  “The Deaths of the Cold War Kings: The Assassinations of Diem & JFK” do Bradley S.O’leary & Edward Lee sáng chế, xuất bản năm 2000. Trong cuốn này, hai tác giả đã chứng minh rằng ông Diệm và ông Nhu buôn thuốc phiện lậu nên bị Tổng Thống Kennedy ra lệnh giết, sau đó Mafia Mỹ đã hợp tác với tập đoàn bạch phiến Pháp và chính quyền Nam Việt Nam giết Tổng Thống Kennedy!
 
Dĩ nhiên, dư luận Mỹ chẳng ai quan tâm gì đến loại sách viết nhảm nhí như vậy, nhưng “phe ta” mừng như vớ được của, vội dịch ra tiếng Việt, in thành sách, phổ biến trên thị trường và trên internet, có Trần Chung Ngọc trình trọng giới thiệu... Nhưng rồi nó cũng chỉ nằm trong thùng rác.
 
Hiện nay, ngoài những đống tài liệu do văn khố Mỹ tiết lộ, các sử gia và học giả đã khám phá ra nhiều bằng chứng cho thấy Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, CIA và một số cơ quan truyền thông Hoa Kỳ đã ngụy tạo nhiều sự kiện để thực hiện biến cố ngày 1.11.1963, đưa miền Nam Việt Nam vào những ngày đen tối. Sau đây là một số sách đã công bố những tài liệu này: 
“Our Vietnam Nightmare” của Marguerite Higgins; “A Death in November, America in Vietnam 1963” của Ellen J.Hammer; “The Year of the Hare, American in Vietnam, January 25, 1963 February 15, 1964” của Francois Xavier Winters; “Lodge in Vietnam, A Patriot Abroad” của Anne Blair, “The Dark Side of Camelot” của Seymour M. Hersch. Đặc biệt, cuốn “Triumph Forsaken: The Vietnam War, 1954-1965” của Mark Moyar, được Minh Võ dịch là “Chiến thắng bị bỏ lỡ”, còn Giáo Sư Tôn Thất Thiện đề nghị dịch là "Thắng lớn không chịu, để bị bại nhục nhã: Hoa Kỳ trong cuộc chiến Việt Nam, 1954-1965". Đây là một cuốn sách của một giáo sư trẻ (sinh năm 1971), không liên hệ gì đến chiến tranh Việt Nam, đã sưu tầm và cung cấp cho chúng ta rất nhiều tài liệu hữu ích chưa từng biết đến trước đây. Tuy nhiên, người Mỹ vẫn còn biết quá ít về biến cố Phật Giáo tại Nam Việt Nam, nên các học giả và sử gia Việt Nam phải làm sáng tỏ thêm vấn đề này.
 
Ngày 24.6.1964, Đại Sứ Cabot Lodge đã mặc áo gấm, chít khăn xếp, rời Việt Nam. Tại phi trường Tân Sơn Nhứt, hàng ngàn tăng ni Phật tử đã tiển đưa một “người ân nhân” đã “cứu Phật Giáo” trong bùi ngùi và luyến tiếc.
 
Ngày 25.8.1965, “người ân nhân” này đã quay trở lại Việt Nam, nhưng không phải để “cứu Phật Giáo”, mà để bật đèn xanh cho chính phủ Nguyễn Cao Kỳ thanh toán các cuộc nổi loạn của Phật Giáo. Sau đó, Giáo Hội Phật Giáo Ấn Quang đứng về phía Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Đó là một “thành tích” lớn của Quan Thái Thú Lodge ở Nam Việt Nam.
 
Ngày 2.11.2010
Lữ Giang