"Hèn mà còn nhận ra mình là thằng hèn, là hèn tử tế. Hèn mà ngậm miệng ăn tiền là hèn nhơ bẩn.
Hèn mà ngậm máu phun người là hèn bất nhân. Hèn bán đất bán nước thì trời tru đất diệt"
(Phạm Chuyên)

Dienstag, 11. Januar 2011

NGƯỜI TÍN HỮU GIÁO DÂN: TIÊU CHUẨN THIẾT YẾU ĐÀO TẠO NGƯỜI DẤN THÂN CHÍNH TRỊ (4)

NGUYỄN HỌC TẬP

6 - Dưới ánh sáng Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội

Định chuẩn phán đoán về các hoàn cảnh lịch sử và xã hội khác nhau của người tín hữu giáo dân, các việc chuyên cần dấn thân và cộng tác góp phần của họ, được nuôi dưỡng như là thức ăn thiết yếu, bởi các lời huấn dạy và các định hướng của Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội.

Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội là kết quả của các cuộc gặp gỡ giữa Phúc Âm và các vấn đề xảy ra trong đời sống xã hội. Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội đã từ luôn luôn thuộc về truyền thống của Giáo Hội. Đó là việc thi hành đức bác ái đứng trước những nhu cầu của con người trong mọi hoàn cảnh thời đại khác nhau. 


Với Thông Điệp Rerum Novarum, Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội đi vào giai đoạn tân tiến của xã hội con người,
- thiết lập một cách có hệ thống định chế xã hội và đáp ứng lại các giai đoạn phát triển khoa học, xã hội, do tiến trình thành thị và kỷ nghệ hoá cuộc sống con người,
- cũng như để trả lời và định hướng chính đáng các phong trào ý thức hệ chính trị xã hội mới  đang đồng thời phát sinh, đặt sứ mạng rao giảng Phúc Âm của Giáo Hội trong hoan cảnh mới và cần phải có những đáp ứng mới.

Từ đó trở đi,
- " nếu từ nay, Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội trở thành một " khối giáo lý " dần dần được kiến tạo nên trong khi Giáo Hội, hoàn toàn được Chúa Giêsu Ki Tô mạc khải các lời dạy bảo của mình và dưới sự bảo trợ của Chúa Thánh Thần, chuẩn định ý nghĩa của của những biến cố đang xảy ra trong dòng lịch sử . Giáo Hội tìm cách hướng dẫn con người đáp ứng lại thoả đáng, cả với sự trợ lực của lý trí và các khoa học của con người, về ơn gọi của họ như là những người xây dựng có trách nhiệm xã hội con người " ( ĐTC Gioan Phaolò II, Sollecitudo rei socialis, 1).

Huấn dụ Xã Hội của Giáo Hội dường như bị quên lãng đi một thời gian trong tâm thức người tín hữu Chúa Ki Tô, sau Công Đồng Vatican II; nhưng được làm cho sống động tích cực trở lại dưới triều đại Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolồ II, trong các nền tảng thần học, nhân chủng học và văn hóa của ngài, nhứt là trong nhận thức gắn bó sát thực vào lịch sử của ngài. 

Gia tài đó được thu lượm và xếp đặt có hệ thống lại trong quyển Tóm Lược Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội (  Pontificio Consiglio Giustizia e Pace, Compendio della Dottrina Sociale della Chiesa, Libreria Editrice Vaticana, 2005).

Như vậy, một cuộc hiện diện mới của người tín hữu giáo dân trong lãnh vực công cộng đòi buộc phải có cuộc hội nhập mới và hoàn hảo vào các Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội trong tiến trình huấn luyện và trong nội dung của môn giáo lý, để đào tạo người tín hữu. Điều đó, về phía người tín hữu giáo dân, đòi buôc họ phải chuyên cần học tập, hấp thụ một cách trung thành, đón nhận những gì Giáo Hội huấn dạy cho như là định chuẩn để suy nghĩ, phán đoán và định hướng hành động ( ĐTC Phaolồ VI, Octogesima adveniens, 4).

Chiếc kiềng ba chân làm nền móng cho việc huấn luyện đó có khả năng rất rộng lớn để phân tích và biến đổi xã hội của thời đại chúng ta. Đó là 

- phẩm giá con người, không bao giờ được coi chỉ là
     * một mảnh vụn vất chất,
     * một mắt xích của chuổi sinh lý học,
     * một yếu tố vô danh trong tổ chức thị xã ( polis) hay trong đường lối chính trị quốc gia,
     * một dụng cụ hay một năng lượng làm việc trong tiến trình sản xuất,

- nguyên tắc phụ túc hổ tương ( sussidiarietà ) : những gì các tổ chức và cơ chế ở cấp bậc thấp hơn có thể tự mình chu toàn được, cơ chế ở cấp bậc cao hơn không can thiệp vào; cơ chế ở cấp bậc cao hơn chỉ can thiệp vào khi cần, bằng cách giúp phương tiện, nhân lực, quy tựu công sức để cho cơ chế thấp hơn tự giải quyết bằng cấu trúc của mình, chớ không đứng ra làm thay cho), Nguyên tắc phụ túc hổ tương làm cho con người biết
   * định tính phẩm giá của chủ thể cá nhân và xã hội,
   * định giá hành xử quyền tự do, trách nhiệm và sự tham dự của cá nhân, gia đình và các " tổ chức xã hội trung gian " vào định hướng chính trị - xã hội, vượt lên trên quan niệm lưỡng cực hẹp hòi của Quốc Gia - thị trường,

- nguyên tắc liên đới (solidarietà), được thúc đẩy bởi tinh thần đức bác ái của " người samaritano nhân lành ", bởi đức bác ái trong các động tác và chức vụ chính trị, trong nhãn quang " đức bác ái toàn cầu hoá và liên đới trong tình anh em " (Compendio della Dottrina Sociale della Chiesa).

Trong khối nhân cội các lời giảng dạy của Giáo Hội có một vài nguyên tắc nền tảng và không thể khước từ bỏ qua được, để có thể kiến tạo được một xã hội thật sự thích đáng đối với con người.
Phẩm giá tối thượng của con người hàm chứa mạng sống là quyền bất khả xâm phạm và bất khả nhượng và từ đó đưa đến việc
   * bảo vệ mạng sống đó từ lúc tượng thai cho đến khi chết tự nhiên,
   * quyền tự do tôn giáo vá tự do giáo dục là những quyền căn bản của mọi quyền tự do khác,
   * gia đình được đặt nền tảng trên hôn nhân ( Thánh Bộ Tín Lý, Nota dottrinale su alcune questioni relative all'impegno e al comportamento dei cattolici nella politica, 2003).
Ngoài ra người tín hữu giáo dân cần đặc tâm chú ý tối đa đến các khía cạnh khác là những khiá cạnh quan trọng nền tảng để thiết định chương trình và chuẩn định lựa chọn. Giữa nhiều yếu tố vừa đề cập, chúng ta có thể kể ra một vài yếu tố khẩn thiết hiện đại, như việc đầu tư vào giáo dục, chăm lo và lợi dụng
   * để tạo được kết quả phát triển " số vốn nhân thức " ( human capital ) cá nhân, xã hội và văn hoá các quốc gia,
   * để tạo được mức thăng tiến thoả đáng với  phẩm chất cuộc sống con người,
   * tạo được môi trường sống thích hợp cho cuộc sống chung quốc gia cũng như cộng đồng quốc tế,
   * bảo vệ được sự phát triển gia đình và xã hội trong Quốc Gia, nhờ vào việc phối hợp giữa tác động của thị trường, luân lý giá đình và các tổ chức xã hội trung gian để làm cho kinh tế phát triển quân bình, chống lại chống lại cảnh tượng nghèo đói.

Người tín hữu giáo dân cũng phải lưu ý đến kiến thức và tiến bộ kỷ thuật chuyên môn,
   * phải được dùng để phục vụ con người và mọi người, theo lề luật luân lý, 
   * chớ không phải chỉ theo những gì kỷ thuật khả dĩ cho phép có thê thực hành được, nhứt là đặc tâm lưu ý dành mọi ưu tiên cho những ai đang có nhu cầu cần được giúp đỡ và những người đang đau khổ, đặc biệt trước những tình trạng khó nghèo vật chất, luân lý và thiêng liêng đang hiện diện trong xã hội chúng ta ngày nay.
Tổ chức xã hội đáng được mong ước mà người tín hữu giáo dân nhằm đến là
   * xã hội từ chối chiến tranh và khủng bố, bằng việc tìm kiếm thiết thực và can đảm một phương thức tổ chức xã hội đưa đến hoà giài và hoà bình,
   * thăng tiến tinh thần liên đới hổ tương,
   * phân chia công bình và bác ái các tài nguyên vât chất,
   * bảo vệ môi sinh, tạo được nền an ninh trên con đường tiến tới việc xây dựng một cộng đồng thế giới chính đáng như là một gia đình nhân loại ( ĐTC Benedictus XVI, Caritas in Veritate ).   

Dĩ nhiên, nếu Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội vẫn còn giới hạn trong việc phổ biến trở lại một cách tổng quát các " nguyên tắc " và      " các giá trị ", phổ biến trở lại các lối giải thích chỉ quy hướng về nội dung, giải thích theo ý nghĩa thuần hàn lâm viện, các bản văn đó có nguy cơ chỉ là những chỉ thị khô cằn, bất động và không đem lại lợi ích gì. 

Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội thuộc vê lãnh vực luân lý xã hội, nghĩa là tiêu chuẩn nền tảng và lý do thúc đẩy và định hướng cho động tác:

- "Ngày hôm nay hơn bao giờ hết - Đức Phaolồ Vi viết - Lời Chúa kông có thể được rao giảng và lắng nghe, nếu không được đi kèm theo bởi nhân chứng sức mạnh của Chúa Thánh Thần, tác động trong động tác của các tín hữu để phục vụ anh em mình, nhứt là ở những nơi liên hệ đến cuộc sống còn và tương lai của họ" (ĐTC Phaolồ VI, Octogesimo adveniens, 51).

Thật vậy, Đức Thánh Cha Gioan Phaolồ II xác nhận:
- " Ngày nay hơn bao gìò hết, Giáo Hội nhận thức rằng sứ điệp xã hội có thể gặp được sự khả tín trong nhân chứng của các hành động, trước khi trong phương cách diễn dịch hữu lý nội tại của sứ điệp " ( ĐTC Gioan Phaolồ II,Centesimus Annus, 57).

Điều quan trọng Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội không phải là một ý thức hệ hay là một cuộc tranh cải về " những khẩu hiệu tối thượng của hệ thống ", mà là chân lý, tư tưởng sống động biến đổ thành động tác và kết quả sung mãn của một kinh nghiệm Ki Tô giáo, chiếu toả ánh sáng ra trên mọi lãnh vực, cấu trúc và hoàn cảnh xã hội.

Bởi đó Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội
   * không thể chỉ hạn hẹp lại thành những bài diễn thuyết,
   * không thể chỉ bốc hơi lên qua những bài diễn giảng hùng biện,
   * không phải chỉ là những luận cứ để đưa ra những chuổi " tràng hạt " tố cáo những sai trái,
   * không thể chỉ dựa vào những khuôn mẫu tổ chức xã hội tiền chế,
   * mà là thái độ xác nhận và hổ trợ cho một cách sống, một phong trào, một cuộc đổi mới thực tại chính trị-xã hội xứng đáng với phẩm giá con người hơn.

Bởi đó Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolồ II đã nhân biết trong truyền thống Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội là

- " động tác tích cực sung mãn  của hàng triệu triệu con người, tác động cá nhân hay tổ chức khác nhau thành nhiều tiểu tổ, phối hợp nhau thành hiệp hội, chính đảng ( ...) được thiết lập nên như là một phong trào rộng lớn để bênh vực con người và bảo vệ phẩm giá con người, mà trong các biến cố thay đổi khác nhau của lịch sử đã góp phần xây dựng một xã hội công bình hơn hay ít nhứt là để ngăn chận và giảm thiểu những bất công " ( ĐTC Gioan Phaolồ II, Centesimus Annus, 3).

Như vậy, vấn đề tiên khởi và chính yếu của Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội, đó là
   * có được các chủ thể thực hữu, không những nhân biết chắc chắn đây là những nguyên tắc, định chuẩn và định hướng,
   * mà là biết làm cho những yếu tố đó được hội nhập văn hoá, biết hoán chuyển các nguyên tắc, định chuẩn và định hướng đó thành hiểu biết và thẩm quyền để phân tích và phán đoán đối với những vấn đề xã hội phức tạp,
   * làm sao để họ biết biến hoá các yếu tố đó thành những công trình xây dựng xã hội, giáo dục, sản xuất, văn hoá và bác ái đáp ứng lại các nhu cầu của con người, nhằm lợi ích chung, để mở ra những khuôn mẫu sống xứng đáng với con người hơn.

Nói cách chung là làm sao để họ biết biến hoá các yếu tố đó thành định hướng dấn thân chính trị, đem vào các động tác thiết định luật pháp, trên đó cuộc sống xã hội - chính trị Quốc Gia được thiết định.

Hiểu như vậy, chúng ta có thể thấy được các Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội cũng là những lời để  nghị với các Ki Tô hữu trong các Giáo Hội khác, ngoài Công Giáo,  và cho tất cả những ai thành tâm thiện chí, muốn có được nguyên tắc, định chuẩn để phán đoán và định hướng cho các động tác thiết thực vào cuộc sống xã hội.

Như vậy ảnh hưởng các Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội không phải chỉ có tầm tác động hạn hẹp đối với người tín hữu giáo dân công giáo, mà trương độ và cường độ được trải rông ra cho mọi cộng đồng xã hội, nhằm tạo nên một cuộc sống xứng đáng với phẩm giá con người hơn.