"Hèn mà còn nhận ra mình là thằng hèn, là hèn tử tế. Hèn mà ngậm miệng ăn tiền là hèn nhơ bẩn.
Hèn mà ngậm máu phun người là hèn bất nhân. Hèn bán đất bán nước thì trời tru đất diệt"
(Phạm Chuyên)

Freitag, 20. Mai 2011

Cải Cách Ruộng Đất Dưới Cái Nhìn Của Một Giám Mục

Cố Giám Mục Phaolô Lê Đắc Trọng(1917- 2009)

Cố Giám Mục Phaolô Lê Đắc Trọng(1917- 2009)
 
Lời bàn:  Nhân bài viết về vấn đề “Luật đất đai” dưới chế độ cộng sản luôn được đông đảo bạn đọc  chiếu cố cho thấy người dân trong nước có quá nhiều lo lắng khi phải đối phó với những luật lệ đầy gian manh, lừa dối của nhà nước.  Để các bạn trẻ thấy rõ thêm bản chất của đảng, những người cộng sản Việt từ  xưa đến nay. Blog Mười Sáu xin được trích đăng phần “Cải Cách Ruộng Đất” trong sách Hồi Ký của cố Giám Mục Phao Lô Lê Đắc Trọng, phụ tá Tổng Giáo Phận Hà Nội: ” Chứng Từ Của Một Giám Mục”. Hình ảnh từ  các nguồn trên Net chỉ có tính cách minh họa.
 
Vài hàng về đức Giám Mục Phao Lồ: Tác Giả Trần Phong Vũ.

Sau 92 năm tại thế, ngày 07-9-2009 Đức Cha Phaolô Lê Đắc Trọng, nguyên giám mục phụ tá tổng giáo phận Hà Nội đã được Thiên Chúa gọi về. Trong hơn 60 năm linh mục và 15 năm giám mục, ít ai biết rõ về thân thế, gia cảnh nhất là tác phong, nhân cách của ngài. Cho đến những năm cuối đời khi hai tập Hồi Ký 1 (2006) và 2 (2007) được phổ biến giới hạn trong nước, một số người mới bắt đầu lờ mờ nhận ra nơi Đức Cha Phaolô một nhân cách lớn. Nhưng vẫn chưa đủ rõ nét.

Phải chờ tới sau Thánh Lễ an táng tại Nhà Thờ Chính Tòa Nam Định ngày 09-9-2009, khi Hồi Ký tập 3 được công bố*, người ta mới cảm nhận được trọn vẹn chân dung của người môn đệ Chúa Kitô đã âm thầm nhưng can đảm sống và thể nghiệm niềm tin son sắt của mình giữa những tháng năm đầy biến động trong lòng Giáo hội và Quê hương.  Đấy là hình ảnh của đoá hoa sen tinh khiết lừng lững vươn lên giữa bùn lầy nhơ bẩn.

Hé mở đôi chút về mình, tác giả hồi ký cho hay: “Tính tôi nhút nhát, không thích ra mắt. Sợ gặp người giầu có quyền sang, thích giao thiệp với những người dân nghèo khó”. (HK toàn tập Phần Một Thời Thơ Ấu & Bước Đường Mục Vụ, trang 25-26). Trong bài giảng thuyết nhân Thánh Lễ an táng Đức Cha Phaolô ở Nhà Thờ Nam Định hôm 09-9-2009, Đức Cha Lôrenxô Chu Văn Minh, đương kim giám mục phụ tá Hà Nội, làm chứng: Trong cuộc sống riêng tư, ngài luôn sống khó nghèo, không ham hố hưởng thụ giàu sang, ngài ăn uống đạm bạc, mặc áo vải thô, đi guốc mộc Về điểm này, người ngoại cuộc chỉ cần nhìn tấm hình chụp chiếc giường ngủ đơn sơ, thanh đạm của vị giám mục quá cố là đủ rõ.

Bài Đọc Suy Gẫm: Cải Cách Ruộng Đất Dưới Cái Nhìn Của cố GM. Phaolồ Lê Đắc Trọng.
Cải cách ruộng đất: Đây là biến cố được tác giả Hồi Ký coi là “long trời lở đất” do đảng và nhà nước phát động ở miền Bắc giữa thập niên 50. Dù là một linh mục, nhưng với tâm tình yêu nước thiết tha, luôn gắn bó với nhịp sống nổi trôi, bất hạnh của người dân trong thời nhiễu nhương, tao loạn, đức cha đã quan sát từng đường đi nước bước của guồng máy cầm quyền trong tiến trình cải cách ruộng đất, từ giai đoàn các Đội Cải Cách được gửi về để “bắt rễ” tại các địa phương tới lúc phong trào lên cao với hàng trăm, hàng ngàn người dân vô tội bị đem ra đấu tố, bị xỉ nhục, bị giam cầm hay bị giết chóc thảm khốc.

Một cách khái quát, tác giả Hồi Ký nhận định:

Cuộc cải cách ruộng đất nó dữ dội quá, giết nhiều người quá, đã làm hoen ố bộ mặt cộng sản luôn tuyên bố vì nước, vì dân, vì độc lập, với bao là chính nghĩa xuông.” (HK toàn tập Phần Ba � Cái Nhìn Đối Với Việt Minh & Chủ Nghĩa CS. Trang 375)

Đức Cha Phaolô khẳng định, cũng như mọi đường lối, chính sách khác, khi phát động cuộc cải cách ruộng đất, đảng và nhà nước cộng sản hoàn toàn rập khuôn những gì quan thày của họ đã thực hiện tại Liên Xô và Trung Cộng.

“… Người Cộng sản Việt Nam học được kinh nghiệm của các anh Liên Xô, Trung Quốc, nên công cuộc được tổ chức rất chu đáo cặn kẽ, từ lúc phát động đến hoàn thành”


Kinh nghiệm đó như thế nào? Theo trình thuật của tác giả Hồi ký thì:

“Đầu hết là cái khẩu hiệu: ‘Người cầy có ruộng’ quá hợp tình hợp lý đi thôi. Cho được thế, đem ruộng đất ở tay những người có nhiều quá mà san sẻ cho những người không có tí nào! Đó cũng là lẽ công bằng. Nhưng làm sao để vui lòng san sẻ. Giáo Hội có luật công bằng, xã hội dựa trên bác ái. Cộng sản có phương châm đấu tranh dựa trên căm thù. Làm thế nào để khơi dậy căm thù, hay nói chung, để thành cán bộ cải cách, là đội cải cách?” (Trang 378)

Theo nhận định bằng những thực chứng của Đức Cha Phaolô thì đây là một chính sách được chuẩn bị kỹ lưỡng với những nhân sự gọi là “đội cải cách” được đào tạo có bài bản trong những trường huấn luyện được xây dựng ở nhiều nơi.

Đức cha viết:

 “…Những trường được xây dựng để đào tạo đội cải cách. Tôi biết một trường như thế ở Phủ Lý….. Người ta dạy gì trong trường? Tôi không rõ, tất cả là bí mật. Nhưng khi thấy công việc đội cải cách làm, thì biết họ học gì, được huấn luyện thế nào?

Vậy đội cải cách đã làm gì? Xin hãy đọc những giòng HK sau đây:

“… Vào phòng họp, đội dõng dạc tuyên bố: ‘Bà con nông dân đề cao cảnh giác, vì địch nó ngồi ở đằng sau ta…’.  Người ngồi sau run sợ…! Một lúc nữa, đội lại nói: ‘Bà con cảnh giác, địch nó ngồi ngay trước mặt ta‘. Ngồi trước ngồi sau đều là địch cả. Không còn biết chọn chỗ nào nên ngồi?  Sợ sệt và sợ sệt…!

Ai nấy ngồi yên chỗ, bắt đầu cuộc ‘đấu tố’. Tố cáo tội ác giai cấp bóc lột, đấu tranh đánh đổ giai cấp bóc lột đó. Mọi người bắt đầu cuộc kể khổ, để tố cáo tội ác của bọn địa chủ cường hào ác bá. Những tội ác được bịa đặt ra nhiều hơn và nặng nề hơn sự thật. 

‘…Tôi vay hắn ta mấy bát gạo, hắn ta bắt tôi viết văn tự thế bằng một sào ruộng. Tôi không có gì trả, thế là hắn ăn không sào ruộng của tôi. Và cứ mấy lần vay như vậy, rồi không có gì trả, thế là không còn một mẩu đất để cắm dùi’. 

‘Tôi cấy tô cho nó, chẳng may trời để mất mùa, vì bão lụt, nó cứ thu tô như chẳng có tai hoạ gì xẩy ra. Chẳng có gì mà nộp, nó cho người đến tháo bộ cửa, dỡ mấy gian nhà tôi….’
‘Tôi nghèo khổ, đi làm thuê cho nhà nó, ăn đói, ăn khát, nó còn đánh đập, tiền công không trả, nhà nó tìm cách đuổi tôi đi để quỵt công….’

Và nhiều thứ tội khác, chung quy chỉ là tội tàn bạo, bóc lột, đổ trên những người bị quy là địa chủ, hay ác ôn, cường hào ác bá. Có thể là tội cá biệt nhưng nay là tội chung. Ai là đối tượng thì được khoác cho những tội đó. Người nông dân thật thà chất phác, mấy ai nghĩ ra được cách tố cáo, tất cả đã được dậy bảo, được Đội ‘mớm’ cho trước.


Thế rồi đấu, đấu tranh với địa chủ, thì phải có khí thế, chưa quen thì phải tập. Chưa có ai xuất hiện để mà đấu, thì có thể dùng cái cột nhà thay thế. Bà con và nhất là các phụ nữ. Giơ tay xỉa xói vào cái cột nhà: ‘Mày đã cướp của tao, mày đã đốt nhà tao, mày đã đánh đập tao thật tàn bạo, tao khó nhọc làm giầu cho mày, mà mày cho tao ăn đói ăn khát…’. Tất cả phải được nhuần nhuyễn, từ cử chỉ đến lời nói, để khi gặp ‘người thật’ không ngượng ngùng ái ngại.


Đến nỗi mà một người phụ nữ đứng tuổi, rất thương người cha già chị săn sóc hằng ngày. Chị nói với bố: ‘Ông có biết tôi là ai không?’. Người cha ngậm ngùi nhìn đứa con dứt ruột của mình và nói:: ‘Thưa bà, con là người đẻ ra bà ạ’. Lời thưa não nùng thảm thương, nhưng phải hỏi cái sức ma quỉ nào đó đã thúc đẩy người con chất vấn người bố như thế? Cứ đó mà luận ra những người khởi xướng!” (Trang 381-382-382)

Theo nhận định của Đức Cha Phaolô thì không ai khác, chính ông Hồ là người chịu trách nhiệm về kết quả kinh hoàng của cuộc cải cách ruộng đất ở miền Bắc mà Trường Chinh Đăng Xuân Khu chỉ là một thứ “con dê tế thần”. Ngài viết trong Hồi Ký như sau:

“Tuy là Tổng bí thư Đảng, là lý thuyết gia của Đảng, nhưng ít người biết đến tên tuổi ông, đến mặt mũi ông. Ông được trao cho là người thừa hành kế hoạch cải cách ruộng đất, còn ông Hồ Chí Minh ‘giả cách đứng ngoài‘.


Kế hoạch đó cũng đạt mục đích phần nào, vì sau này tai tiếng đều trút trên đầu ông Trường Chinh, mà ‘Bác Hồ’ là ‘nhân từ’ chỉ bị liên hệ chút ít. Nhưng làm sao mà che mắt được dư luận nhân dân. Ông Hồ là lãnh tụ tối cao, mà ông Trường Chinh chỉ là tay chân, làm sao công việc long trời lở đất đó lại qua mắt được lãnh tụ tối cao?…” (Trang 375-376)

Giữa lúc cuộc cải cách ruộng đất đang tiến vào giai đoạn kinh hoàng nhất thì nhà cầm quyền lên tiếng là có sai lầm và ra lệnh sửa sai. Sửa sai như thế nào? Vì nhận ra là sai lầm nên sửa sai hay chỉ là một thứ đòn phép quen thuộc của những người cộng sản? Sự thật ra sao, chúng ta hãy đọc tiếp những chứng từ của cố Giám Mục Phaolô Lê Đắc Trọng:


“Lại bàn về sai lầm. Thiết nghĩ làm gì có thể sai lầm được? Giả sử chỉ có mình Việt Nam làm cải cách ruộng đất, chưa có đâu làm, thì còn có thể nói đến sai lầm. Đàng này các bậc thày, các bậc đàn anh đã làm, đã rút kinh nghiệm. Việt Nam chỉ việc lặp lại. Người ta đã tính từ trước sẽ có những sai sót. Có thể nói, những sai sót cố ý! Thà có giết nhầm mười người còn hơn để sót một thằng. Hoặc kinh nghiệm cho thấy là việc cải cách gây đau khổ nhức nhối chừng nào! Nên giả cách, có vài sửa sai chẳng vào đâu cả, để phần nào làm nguôi lòng dân.” (Trang 408))

Rập khuôn đấu tố bên Tàu.


Ở một đoạn khác, tác giả Hồi Ký viết tiếp:

“Trong cuốn Biên Niên Sử có nói: ‘Cuộc cải cách ruộng đất đã hoàn thành, mười triệu nông dân có ruộng cầy’. Một cuộc cách mạng long trời lở đất, mà kết quả có thế thì cũng khiêm tốn. Đó chỉ là cái khiêm tốn giả tạo, sự thực kết quả to lớn hơn vô cùng. Lấy được ruộng ở tay người địa chủ ra, không phải là việc dễ dàng. Phải có những bàn tay mạnh mẽ, đi tới tàn bạo của một chính thể độc tài chuyên chính… Lấy lại ruộng đất để chia cho những người cầy, không phải là mục tiêu chính của việc cải cách và chính việc cải cách cũng không phải là mục tiêu của cách mạng. Lấy lại ruộng đất chỉ là phương tiện để cải cách, chính việc cải cách cũng chỉ là phương tiện cho sự thống trị của giai cấp vô sản. Nói đúng ra cho sự thống trị của Đảng chuyên chính được thiết lập vững chắc.

… Cải cách ruộng đất là một cách quét sạch những địa chủ, những cường hào ác ôn, ác bá, những người có uy tín, những người có mầm mống để vươn lên. Tất cả những gì mà cách mạng cho là đối nghịch, là nguy hiểm trong hiện tại và trong tương lai. Quét sạch, để cho xã hội trở nên một tờ giấy trơn, để Đảng muốn vẽ gì thì vẽ, theo ý mình.” (409-410-411)

Hóa ra tất cả chỉ là một tấn tuồng, một trò lường gạt, đối trá không tiền khoáng hậu, chưa từng thấy trong lịch sự mấy ngàn năm của dân tộc Việt. Rút cuộc, người nông dân Việt Nam chỉ là một đám nạn nhân ngây thơ, khốn khổ bị lợi dụng, bị xúi bẩy lao đầu vào những trò bất nhân man rợ của những cuộc đấu tố dẫn tới những cuộc tàn sát đẫm máu với cái mồi do đảng và nhà nước treo trước mắt là được chia chác tài sản, ruộng nương để cuối cùng vẫn trở về với cảnh khố rách áo ôm vì phải thực hiện khẩu hiệu “đoàn kết dân tộc, tiến lên xã hội chủ nghĩa” bằng cách phải trao nộp trở lại những mảnh đất nhỏ vừa được chia chác để tham gia “hợp tác xã”! Trong HK toàn tập Phần III, đức cha Phaolô viết:

“Nông dân vô sản làm gì mà biết suy luận như thế? Người ta bảo đánh thì đánh, đập phá thì đập phá. Rồi họ mãn nguyện với mảnh bằng chứng thực. Họ được làm chủ mấy sào ruộng, để rồi ít lâu nữa sẽ rời những cái ghế chủ nhân. Bây giờ họ chưa biết thế đâu! Tấm bằng được trình bầy một cách rất lộng lẫy khổ 60 x 40 có ghi những chữ lớn với nét đỏ thắm: Giấy chứng nhận quyền sở hữu ruộng đất. 

Sau cuộc đấu tranh mệt mỏi, được thưởng bằng một tờ giấy có ghi: ‘Giấy chứng nhận quyền sở hữu ruộng đất’ là hể hả. Nhưng còn phải giữ cái thành quả đó bằng ‘tăng cường đoàn kết’, rồi ‘nâng cao cảnh giác’. Nâng cao cho đến lúc ruộng đất được đem đi dâng, còn lại mảnh bằng…

Nông dân hí hửng được chia ruộng cày, nhưng gặt xong thì nhà nước đến thu mua sạch thậm chí không đủ gạo ăn cho gia đình.


…Mấy sào ruộng rồi sẽ đưa vào hợp tác xã để ông chủ lại đi cầy thuê…

…Cái bầu trời phát quang, cái mặt đất phẳng lì lì. Muốn dựng lên cái gì thì dựng, với cái tính tàn khốc, tính quá khích, đã tạo nên bầu trời quang, và cái mặt bằng cái tính tình man rợ đó đã in sâu trong lòng, không biết phải bao nhiêu thế hệ mới xoá nổi chăng?” (Trang 413-414-419-420)

Thay lời kết: 

Lòng trung thành với đức tin Công giáo của đức cha còn được biểu hiện qua những lần ngài được mời đi “làm việc”. Trong Hồi Ký, ngài kể lại chi tiết cuộc đối thoại sau đây:

“Một tháng sau, tôi bị gọi ra Viện Kiểm Sát Nhân Dân làm việc. Viện Kiểm Sát có chức năng điều tra xác minh dữ kiện để đưa ra Toà án. Lần đầu tiên và cả đời tôi chỉ có lần này mới biết Viện Kiểm Sát…. Chung quanh tôi độ ba chục giáo gian, tôi quen mặt một số vẫn đến nhà xứ đấu tranh. Ông Viện Trưởng cất tiếng hỏi:
- Ông có làm phép đạo cho anh này không (tôi không nhớ tên)?
- Tôi thưa: Có.
- Khi làm phép thì ông đã nói thế nào?
- Điều này luật đạo chúng tôi không được phép nói.
- Ông phải nói, vì đây là pháp luật đòi hỏi.
- Tôi không được phép nói, vì luật chúng tôi dạy rằng: khi giải tội thì không bao giờ được nói điều người ta nói với tôi, dù có phải chết cũng không được nói: đó là bí mật toà giải tội, chúng tôi phải giữ với giá mạng sống chúng tôi. 

Họ cứ hỏi đi hỏi lại mãi, tôi vẫn chỉ thưa có một câu:
- Tôi không được phép nói.

Rồi họ hỏi hàng mấy chục câu hỏi vu vơ, trong đó có một câu quan trọng:
- Ông có tôn trọng chính quyền không?
- Có – luật đạo chúng tôi dạy điều ấy.

Cả một ngày thẩm vấn, chỉ có lời hỏi đáp đó là đàng hoàng.

Ông Viện Trưởng đọc lại biên bản để tôi ký. Khi đọc đến câu: ông có tôn trọng “chính quyền” không? thì ông ta lại hỏi: ông có tôn trọng luật pháp nhà nước không? Tôi ngắt lời ông ngay và nói: Ông không hỏi tôi thế. Nếu ông hỏi tôi ‘có tôn trọng luật pháp không’, thì tôi thưa khác”.
- Ông thưa khác thế nào?
- Nếu ông hỏi có tôn trọng chính quyền thì tôi thưa có và không điều kiện. Vì luật đạo dạy dù chính quyền là thế nào đi nữa, cũng phải tôn trọng. Còn nếu hỏi: Có tôn trọng luật pháp nhà nước không, thì tôi thưa khác.
- Thưa thế nào? Rồi ông ta giơ cao cuốn Hiến pháp lên:
- Đây luật pháp nhà nước, dù là Tổng thống, dù là Chủ tịch nước cũng phải tuân theo. Và ông ta trịnh trọng hơn nữa, hỏi khi dằn từng tiếng:
- Ông có tuân theo pháp luật nhà nước không?
Tôi cũng trịnh trọng và dằn từng tiếng:
- Tôi tôn trọng luật pháp nhà nước, khi luật pháp đó không ngược đạo lý chúng tôi.
Ông ta lại nói to hơn và dằn từng tiếng:
- Đây! Pháp luật nhà nước! Ông có tôn trọng không?
Tôi cũng dằn từng tiếng:
- Tôi tôn trọng khi luật pháp đó không có gì đi ngược với đạo lý chúng tôi. Còn nếu có điều gì ngược với đạo lý chúng tôi, lương tâm tôi không buộc phải theo.
- Thế nào là không hợp với lương tâm?
Tôi ví dụ:
- Ngày xưa vua chúa ra luật cấm đạo, thì dù có chết cũng không tuân luật vua chúa. Đó là cái chết của các Thánh Tử Đạo chúng tôi đó.
Ông Viện trưởng không còn gì mà nói. Tôi cũng thế…” (HK toàn tập Phần Ba Cái Nhìn Đối Với Việt Minh & Chủ Nghĩa CS, trang 365-366-367).

Cố Giám Mục Phaolồ Lê Đắc Trọng