"Hèn mà còn nhận ra mình là thằng hèn, là hèn tử tế. Hèn mà ngậm miệng ăn tiền là hèn nhơ bẩn.
Hèn mà ngậm máu phun người là hèn bất nhân. Hèn bán đất bán nước thì trời tru đất diệt"
(Phạm Chuyên)

Dienstag, 15. November 2011

Trả lời cho Trần Gia Phụng về “Người Việt không tiêu diệt người Chiêm”

Pgs. Ts. Po Dharma, Tổng biên tập Champaka 

Trần Gia Phụng là một nhà giáo dạy học ở trường trung học Phan Châu Trinh Ðà Nẵng, sang định cư ở Hoa Kỳ vào năm 1995. Kể từ năm 1996, ông bắt đầu làm nghề nghiên cứu và viết văn. Chỉ trong vòng 13 năm, ông ta cho xuất bản 20 tác phẩm về lịch sử cổ đại và cận đại của Việt Nam.

 Ðây là công trình nghiên cứu quá đồ sộ về số lượng bài viết để rồi độc giả có cảm giác rằng Trần Gia Phụng đang viết tiểu thuyết lịch sử hơn là thực hiện chương trình nghiên cứu khoa học về lịch sử Việt Nam. Có chăng vì lý do đó mà học giả Lữ Giang đã đưa ra lời kết luận rằng Trần Gia Phụng nghiên cứu khá nhiều sử liệu, nhất là cổ sử, nhưng khi trình bày, ông thường cố gắng viết “theo lề đường bên phải”, viết cho “hợp với lòng dân, hợp với dư luận ngoài phố hơn là sự thật”(xem http://vanhoamagazine.com).


Trong số 20 công trình nghiên cứu của Trần Gia Phụng, chúng tôi chỉ chú tâm đến tác phẩm mang tựa đề Những Câu Chuyện Việt Sử (Tập 4, 2005), nhất là chương viết về “Ðường Về Phương Nam”, trong đó tác giả đưa ra quan điểm cho rằng người Việt không tiêu diệt người Chiêm và chính quyền Ðại Việt không chủ trương diệt chủng”. Ðó là trọng tâm của đề tài mà chúng tôi muốn đưa ra phân tích trong bài khảo luận này.

1) Dân tộc Chăm quấy phá biên giới 

Trong chương Ðường Về Phương Nam, Trần Gia Phụng viết rằng:

“Hành động gây hấn tấn công liên tục của người Chiêm hay chính quyền Chiêm luôn luôn tạo một tình thế bất ổn thường xuyên ở biên giới, khiến cho chính quyền Ðại Việt lo ngại và tìm cách hóa giải nguy cơ này” (trang 44)
Ai cũng biết, đổ tội cho nước láng giềng quấy phá biên giới chỉ là một thể loại văn chương mà các quốc gia trong khu vực Ðông Nam Á trong đó có Ðại Việt thường áp dụng trước khi xuất quân đánh phá quốc gia đối phương của mình. Chính vì thế Trần Gia Phụng không nên dựa vào phong cách hành văn chính trị này để làm yếu tố lịch sử nhằm hợp thức hóa chủ nghĩa bành trướng của Ðại Việt trên lãnh thổ Champa. Vương quốc Campuchia cách xa Ðại Việt hơn ngàn cây số, không xua quân quấy phá biên giới của dân tộc Việt, thế thì tại sao Ðại Việt cũng xua quân tấn công Campuchia để chiếm trọn đất đai của họ ở miền nam Việt Nam hôm nay? Trần Gia Phụng nên có tầm nhìn sâu xa hơn nhất là phải nắm vững những yếu tố lịch sử của Champa một cách vững vàng hơn trước khi kết tội dân tộc Chăm quấy phá biên giới của dân tộc Việt để rồi hôm nay họ phải gánh chịu thân phận của tập thể tộc người vong quốc.

2). Vì người Bồ Ðào Nha mà nhà Nguyễn phải xâm chiếm Champa

Cũng trong chương này, Trần Gia Phụng cho rằng:
”Vào cuối thế kỷ thứ 16, người Chiêm thường buôn bán với người Bồ Ðào Nha ở Ma Cao, thuộc địa của Bồ trên đất Trung Hoa. Thương thuyền Bồ Ðào Nha thường hay ghé buôn bán trao đổi với người Chiêm ở các hải cảng Cam Ranh và Phan Rang. Do các lẽ đó, chúa Nguyễn cho thi hành chính sách dinh điền, đưa dân tới những vùng đất Chiêm Thành chưa khai thác, mở mang cày cấy vùng đất mới, sống hòa lẫn với người Chiêm, canh chừng và bảo vệ an ninh biên giới”(trang 44)
Có chăng đây chỉ là lối suy diễn của nghệ nhân viết lách chứ không phải là phong cách lý luận của một sử gia Việt Nam đã từng viết 20 tác phẩm?
 
Ai cũng biết, Champa vào cuối thế kỷ thứ 16 là quốc gia có chủ quyền, hội đủ điều kiện pháp lý để buôn bán với bất cứ nước nào trên thế giới. Chính vì thế Ðại Việt không có quyền dựa vào mối liên hệ giữa người Chăm và Bồ Ðào Nha để làm yếu tố chính trị nhằm đưa dân chúng người Kinh xâm nhập vào lãnh thổ Champa mà không có sự đồng ý của vương quốc này. Biến cố vào năm 1692 là một bài học chính đáng mà Trần Gia Phụng nên học hỏi thêm. Lợi dụng cơ hội biên giới mở cửa, dân tộc Kinh tìm cách xin định cư trên lãnh thổ Champa kể từ nữa thế kỷ thứ 17. Sự hiện diện của người Kinh càng ngày càng đông đảo đã gây ra sự bất đồng chung quanh vấn đề người Kinh dùng tiền bạc để mua bán đất đai, kéo theo cuộc vùng dây của dân tộc Chăm vào năm 1692 nhằm bài trừ người Kinh định cư trong vương quốc này. Ðây là một thí dụ điển hình nhằm chứng minh rằng sự hiện diện của dân tộc Việt trên lãnh thổ Champa nằm tại miền trung hôm nay là một yếu tố nằm trong tiến trình của chính sách Nam Tiến, không liên quan gì đến người Bồ Ðài Nha như Trần Gia Phụng vừa nêu ra.
 
Ðối với dân tộc Chăm, đất đai nằm trong lãnh thổ Champa dù chưa khai thác hay bỏ hoang đi nữa, vẫn thuộc về chủ quyền của quốc gia Champa. Mọi sự lấn áp đất đai Champa bằng vũ lực hay qua làn sóng di dân đều xem như là hành động chiếm đoạt lãnh thổ của vương quốc này. Một dân tộc có chủ quyền dù họ là người Chăm hay người Việt đi nữa đều có nghĩa vụ bảo vệ biên cương của họ.
 
Trần Gia Phụng cũng đừng quên rằng sự hiện diện của dân tộc Kinh trên lãnh thổ Champa tại miền trung hôm nay không phải là biến cố nhất thời, mà là tổng thể của một giai đoạn lịch sử đậm máu mà chúng tôi gọi đó là giai đoạn Nam Tiến của dân tộc Việt, cấu thành nhân tố đã làm sụp đổ cả một hệ thống vương triều Champa trên bán đảo Ðông Dương. Nam Tiến ở đây không những ám chỉ cho làn sóng vượt biên của dân tộc Việt để đi tìm tự do và no ấm ở phía nam trong nghĩa hiện đại của nó mà còn là cuộc di dân về phía nam có hệ thống nằm ngay trong “chủ nghĩa đế quốc” của vua chúa Ðại Việt, mặc dù nội dung của nó có sự khác biệt so với “chủ nghĩa đế quốc” của người Mỹ.
 
Theo quan điểm của chúng tôi, “chủ nghĩa đế quốc” của vua chúa Ðại Việt là nhân tố nằm ngay trong nền văn minh của dân tộc Việt. Vua chúa Ðại Việt không phải là người dân bình thường mà là “Thiên Tử”, có nghĩa vụ bành trướng tối đa lãnh thổ của mình trên đất đai của các nước láng giềng, để hoàn thành trách nhiệm của vị “Thiên Hoàng” có chức năng cai trị trên năm châu bốn bể, chứ không phải trên mảnh đất nhỏ nhoi của Ðại Việt vào thời điểm đó. Ðây chỉ là chủ thuyết về không gian của vũ trụ phát xuất từ nền văn minh Trung Hoa mà Ðại Việt chỉ học lại mà thôi.
 
Champa là quốc gia nằm ở phía nam của Ðại Việt. Vì Ðại Việt không giám tiến quân sang phương bắc để chống lại sự oai quyền của Trung Hoa, nên chỉ còn cách tiến quân về phương nam để chiếm trọn đất đai Champa. Chính vì thế, mỗi bước chân của dân tộc Việt tràn về phương nam chỉ là thành tựu của các trận chiến mà Ðại Việt đã từng đứng ra thực hiện hầu làm tròn nghĩa vụ và vai trò của Thiên Tử để đồng hóa tập thể dân tộc Chăm không cùng văn hóa với dân tộc Việt. Nội dung bài viết của Trần Gia Phụng nhằm đổ lỗi cho dân tộc Chăm quấy phá biên giới cũng nằm trong di sản văn hóa mang màu sắc “đế quốc” này.
 
Ðứng trên phương diện lịch sử mà phân tích, sự hiện diện của dân tộc Việt trên dải đất miền trung hôm nay không liên quan gì đến chính sách phát triển dinh điền, vì nạn thiếu đất đai ở miền bắc Việt Nam như Trần Gia Phụng nêu ra, mà là cuộc di dân có tổ chức và luôn luôn đặt dưới quyền bảo trợ của đoàn quân viễn chinh Ðại Việt có mặt trên lãnh thổ Champa bị chiếm đóng. Hay nói một cách khác, chính sách di dân của dân tộc Việt về phía nam hoàn toàn tùy thuộc vào kết quả của cuộc chiến và sức mạnh quân sự của Ðại Việt vào thời điểm đó, chứ không phải làn sóng di cư của người Kinh sang hướng nam vì lý do kinh tế hay chính trị trong nghĩa rộng của nó. Bằng chứng cụ thể, dân tộc Việt chỉ có mặt trong khu vực Quảng Bình và Quảng Trị sau ngày chiến thắng của Ðại Việt chống lại Champa vào năm 1069. Sự hiện diện của dân tộc Việt trong khu vực Huế (Châu Ô và Lý) chỉ xảy ra sau ngày từ trần của vua Chế Mân vào năm 1306 trong một hoàn cảnh vô cùng mờ ám vì không ai hiểu nổi tại sao Huyền Trân Công Chúa không có giọt lệ cho chồng mà lại chạy trốn trong khi đó truyền thống Champa không bao giờ chấp nhận cho Huyền Trân lên giàn hỏa với Chế Mân, vì công chúa nhà Trần không phải là người theo Bà La Môn Giáo. Dân tộc Việt cũng bước chân vào khu vực Quảng Nam, Quảng Ngãi và Qui Nhơn sau ngày thất thủ của thành Ðồ Bàn vào năm 1471, vào khu vực Phú Yên sau cuộc tấn công của nhà Nguyễn vào năm 1611, vào Nha Trang-Cam ranh sau trận chiến vào 1653 và Phan Rang-Phan Rí kể từ vương quốc Champa bị xóa trên bản đồ vào 1832.
 
Những gì mà chúng tôi vừa nêu ra là những tiến trình của biến cố mà Trần Gia Phụng phải nên dựa vào đó để xây dựng quan điểm lịch sử của mình hơn là lý luận quanh co chung quanh mối liên hệ giữa người Chăm và Bồ Ðào Nha để giải thích cho cuộc Nam Tiến của dân tộc Việt.

3). Người Việt chỉ chiếm đất bỏ hoang của dân tộc Chăm

Theo quan điểm của Trần Gia Phụng:  
 
“Dân số Chiêm Thành ít mà đất đai Chiêm Thành rộng. Người Chiêm bỏ hoang đất đai không cày cấy, trong khi người Việt đang cần đất, nên người Việt từ từ tiến xuống khai phá đất đai để sinh sống. Khi người Việt đến khai phá, thì người Chiêm quay qua tấn công. Những cuộc tấn công này trở thành lý do chính đáng cho người Việt đánh trả” (trang 45)
 
Ai cũng biết, Champa là vương quốc có nền văn minh cao độ, đã từng xây dựng cho mình một hệ thống tổ chức chính quyền vững chắc và lực lượng quân sự hùng mạnh, chứ không phải là bộ lạc du canh du cư, ăn lông ở lỗ, bỏ mặc biên giới cho người Việt đến khai thác đất đai của họ một cách tùy tiện như Trần Gia Phụng đã hiểu lầm.
 
Biên giới Champa là biên giới thần quyền ngăn cấm bất cứ ai xâm nhập vào lãnh thổ của quốc gia này. Vua Champa là thủ lãnh của vương quốc mang danh hiệu: Po Tanah Raya (chủ nhân tối cao của đất đai rộng lớn), tức là người có trách nhiệm bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ của vương quốc này. Thế thì làm sao dân tộc Việt có thể vượt biên giới Champa để chiếm cứ đất đai để làm sở hữu của mình mà không có sự phản ứng của chính quyền Champa thời đó? Có chăng Trần Gia Phụng đang viết tiểu thuyết lịch sử thì đúng hơn.
 
Lịch sử đã chứng minh rằng mỗi bước tiến của dân tộc Việt trên mảnh đất Champa nằm ở miền trung Việt Nam chỉ là kết quả của các trận chiến tang thương với bao xương máu của chiến sĩ, thường phát triển theo từng giai đoạn và kéo dài trong hàng thế kỷ. Ðây là cuộc chiến giữa hai dân tộc có hai nền văn minh khác nhau nhằm bảo vệ sự sống còn của mình. Champa là vương quốc theo nền văn minh Ấn Giáo có ý thức hệ riêng về chủ quyền đất đai, quan niệm riêng về biên giới và chủ thuyết riêng về chiến tranh. Theo truyền thống, vương quốc Champa cũng như Campuchia và các quốc gia Ða Ðảo (Nam Dương, Mã Lai) theo nền văn minh Ấn Giáo không bao giờ tìm cách chiếm đoạt đất đai của nước láng giềng để làm sở hữu của mình. Cũng vì tin vào chủ thuyết biên giới mang tính cách thần quyền mà vua Chế Bồng Nga không thôn tính Ðại Việt sau bao lần đánh phá Thăng Long. Nếu không bị gò bó vào qui luật Ấn Giáo này, vương quốc Champa đã xóa bỏ danh xưng Ðại Việt trên bản đồ từ lâu rồi!
 
Không chủ trương chiếm đoạt đất đai của người khác nhưng vương quốc Champa cũng không bao giờ chấp nhận bất cứ ai xâm chiếm lãnh thổ của mình. Ðối với Champa, chiến tranh chỉ là giải pháp nhằm chinh phạt đối phương chứ không phải chiến tranh xâm chiếm đất đai của đối phương. Ngược lại, Ðại Việt chịu ảnh hưởng của nền văn minh Trung Hoa, có ý thức hệ khác biệt về lãnh thổ, thường xây dựng quốc gia của mình chung quanh chủ thuyết “một tắc đất một tắc vàng”, không ngần ngại vượt biên giới để xâm chiếm đất đai của nước láng giềng một khi trận chiến đã thành công. Chính đó mới là nguyên nhân phát sinh ra cuộc Nam Tiến của dân tộc Việt chứ không phải vì người Chăm có nhiều đất đai không canh tác nên người Việt phải đến đó khai thác như Trần Gia Phụng vừa nêu ra.

4). Ðại Việt không chủ trương diệt chủng

Vấn đề diệt chủng là đề tài nổi cộm nằm trong chương Ðường Về Phương Nam. Theo Trần Gia Phụng:  
 
“Chính quyền Ðại Việt không chủ trương diệt chủng, nhưng họ cần phải triệt hạ lực lượng chuyên quấy phá và đánh tập hậu ở phía nam (trang 44) (...) Có điều chắc chắn trong lịch sử bang giao Việt Chiêm, không bao giờ xảy ra nạn diệt chủng như được thấy như vài nước châu Âu” (trang 45) 
 
Trước khi bàn đến vấn đề diệt chủng, Trần Gia Phụng nên định nghĩa trước tiên diệt chủng là gì?
 
Theo quan điểm của công pháp quốc tế, diệt chủng là hành động cố ý tiêu diệt một tập thể tộc người có hệ thống và nằm trong dự án đã đề ra, vì vấn đề chủng tộc, tôn giáo. Dựa vào định nghĩa này, không ai có thể trả lời một cách chính xác Ðại Việt có chủ trương tiêu diệt dân tộc Chăm không? Vấn đề quan trọng ở đây không phải là vấn đề diệt chủng hay triệt hạ dân tộc Chăm như Trần Gia Phụng nêu ra, mà là đi tìm nguyên nhân để trả lời cho câu hỏi tại sao dân tộc Chăm hôm nay chỉ còn sống sót chưa đầy 100 000 người sau 8 thế kỷ đương đầu với cuộc Nam Tiến của dân tộc Việt?
 
Trần Gia Phụng là người gốc miền trung, cũng là nhà nghiên cứu sử học, có thấy một bóng dáng người Chăm nào còn sống sót trên dải đất Champa chạy dài từ tỉnh Quảng Bình cho tới Nha Trang hôm nay? Có chăng một vương quốc Champa giàu mạnh đã để lại cho hậu thế một di sản văn hóa oai hùng mà không có đồng bào Chăm sinh sống!
Nếu hôm nay dân tộc Chăm không còn hiện hữu trên mảnh đất quê cha đất tổ của họ ở miền trung Việt Nam nữa, thì Trần Gia Phụng nên bỏ ít thì giờ để đặt lại vấn đề tại sao? Họ bỏ xứ ra đi vì chiến tranh hay bị tiêu diệt vì lý do của cuộc Nam Tiến? Nhưng nguyên nhân của sự tiêu diệt này không nhất thiết phát xuất từ chiến tranh hay súng đạn và cũng không phải từ hành động chém giết lẫn nhau trên bãi chiến trường mà là phát xuất từ nhiều yếu tố khác nhau trong đó chính sách đồng hóa mà Ðại Việt thường dùng làm bích chương để chinh phạt các dân tộc chư hầu man ri mọi rợ, đã đóng một vai trò tích cực trong tiến trình hủy diệt một tập thể dân tộc Chăm ở miền trung Việt Nam để họ không còn biết đến đâu là nguồn gốc nhân chủng và lịch sử của họ nữa. Chính đó là trọng tâm của đề tài mà Trần Gia Phụng phải nên đưa ra mổ xẻ trước khi bàn đến vấn đề người Chăm bị diệt chủng hay không, một đề tài rất nhạy cảm đối với dân tộc Chăm và cả dân tộc Việt.

5). Dân tộc Việt không phá hủy đền đài cung điện Champa

Bàn về di sản đền đài Champa, Trần Gia Phụng viết rằng:  
 
“Người Việt không phá hủy các đền đài cung điện hay thánh tích Chiêm Thành. Các đền tháp của Chiêm Thành từ được xây dựng từ Quảng Bình vào đến Bình Thuận được bảo toàn chu đáo từ khi có sự hiện diện của người Việt cho đến ngày nay. Nếu chủ trương diệt chủng, người Việt chẳng những tiêu diệt người Chiêm, mà còn phá hủy đền đài thánh tích Chiêm để xóa đi toàn bộ dấu vết nước này” (trang 45) 
 
Ðây là phong cách lý luận của một sử gia có tri thức không bình thường. Ngay cả Chế Lan Viên, dù sao chỉ là nhà thơ chuyên về nghề viết văn, cũng công nhận rằng sau 8 thế kỷ chiến tranh tương tàn nhằm chống lại làn sóng Nam Tiến, vương quốc Champa chỉ để lại cho hậu thế hôm nay một chuỗi di tích đền đài hoang phế và điêu tàn. Trần Gia Phụng vẫn còn đôi mắt trong sáng để hoàn thành 20 tác phẩm chứ không phải là người mù mắt không phân biệt được màu sắc, thế thì tại sao tác giả không thấy những đền đài Champa bị tàn phá, cung điện Champa bị hủy diệt và di sản lịch sử Champa chỉ còn là đống gạch nằm ngổn ngang ở miền trung Việt Nam hôm nay!
 
Theo chúng tôi, phong cách lý luận cho rằng “các đền tháp của Chiêm Thành (...) được bảo toàn chu đáo từ khi có sự hiện diện của người Việt cho đến ngày nay” chỉ là thể loại văn chương lường gạt độc giả hơn là quan điểm của một nhà nghiên cứu nghiêm túc. Ðọc qua nội dung của đoạn văn này, chúng tôi có cảm tưởng rằng Trần Gia Phụng đang viết một giáo trình giảng dạy cho các con em trong trường tiểu học chứ không phải là phong cách viết văn của một sử gia trong nghĩa rộng của nó.

6). Dân tộc Chăm không đòi lại đất đai đã bị chiếm đóng

Cũng trong chương “Ðường Về Phương Nam”, Trần Gia Phụng không ngần ngại phóng đại lời tuyên bố của chúng tôi trong dịp trao đổi với ông ta vào ngày 13-12-1999 tại Toronto như sau:  
 
“Một nhà nghiên cứu gốc Chiêm [tức là Ts. Po Dharma] cho rằng theo quan niệm thần học của người Chiêm, một khi đất đai bị nước ngoài (Việt) chiếm đóng, thần của người Chiêm không còn linh nghiệm (...)nên người Chiêm không muốn đòi lại đất đai, vì đòi lại ở cũng không tốt. Do đó, người Việt tiến đến sinh sống tại vùng nào, thì người Chiêm không đòi lại, không chống đối để khôi phục (...)Thói quen này của người Chiêm khuyến khích người Việt tiến mãi, vì không gặp cuộc kháng cự nào đáng kể của người Chiêm (trang 46) (...) Dẫu sao, vẫn có những dư luận đổ lỗi cho người Việt về sự suy thoái của Chiêm Thành” (trang 47)

Trong cuộc tiếp xúc với Trần Gia Phụng tại Toronto, chúng tôi chỉ bàn đến quan niệm biên giới Champa mang tính cách thần quyền. Ðây chỉ là nội dung của bài khảo luận mang tựa đề: “Biên Giới Champa” đăng trong tác phẩm Histoire de frontières de la Péninsule Indochinoise. I.- Les frontières du Vietnam (L'Harmattan, Paris, 1989, trang 128-135) mà chúng tôi đã yêu cầu Trần Gia Phụng nên đọc bài này một cách chi tiết hơn chứ không phải cho phép đăng những lời bình luận của chúng tôi như Trần Gia Phụng đã bịa ra. Một nhà sử học phải có nghĩa vụ đọc và tham khảo nội dung bài viết đã đăng tải chứ không có quyền nghe lóm những gì mà người ta kể lại. 
Ðối với dân tộc Champa, biên giới là đường biên mang tính cách thần quyền nhằm chia cách giữa hai lãnh thổ. Chính vì thế không ai có quyền vượt qua biên giới mà không có sự đồng ý của thần linh canh giữ biên giới này. Cũng vì quá tin vào biên giới thần quyền mà người Chăm ít khi từ bỏ “quê cha đất tổ” để đi định cư nơi khác ngoại trừ những biến cố trọng đại như chiến tranh. Dân tộc Việt cũng thường gắn liền với biên giới của “quê cha đất tổ”, nhưng dân tộc này cũng không từ bỏ quan niệm “một tắt đất một tắc vàng”, cấu thành một chủ thuyết đã biến người Kinh thành một tập thể tộc người linh động và tích cực hơn so với dân tộc Chăm, không ngần ngại vượt ra khỏi biên giới của “quê cha đất tổ” để tiến về phía nam. Chính đó cũng là nhân tố giải thích cho sự hiện diện của dân tộc Việt trên dải đất miền trung hôm nay.
Vì quá tin vào biên giới thần quyền, dân tộc Chăm không bao giờ xâm nhập vào đất đai của người khác hầu chiếm đoạt tài sản của họ. Người Chăm Phan Rang ít khi lập gia đình với người Chăm Phan Rí, cũng vì ngăn cách bởi biên giới thần quyền này. Một khi lập gia đình, con trai người Chăm trước khi bước vào khuôn viên gia đình của người vợ phải làm lễ rửa chân để chứng minh rằng ông ta không mang bụi bậm từ bên ngoài vào biên giới thân tộc của người phụ nữ, v.v. Kể từ đó biên giới trở thành một hệ thống tín ngưỡng có thần linh canh giữ đã bó buộc vương quốc Champa không có quyền vượt biên giới của mình để xâm chiếm đất đai của quốc gia láng giềng, nhưng Champa cũng không bao giờ chấp nhận bất cứ ai vượt qua biên giới của mình để chiếm đoạt lãnh thổ của vương quốc này. Ðây là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau mà Trần Gia Phụng đã nhằm lẫn.
 
Tóm lại, đối với dân tộc Champa, biên giới là một qui chế pháp lý mang tính thần quyền, không được co giãn theo đà tiến quân của đối phương. Cũng vì mang tính thần quyền đó, tức là không bao giờ bỏ rơi thần linh canh giữ biên giới của mình bị khống chế bởi dân tộc khác mà vương quốc Champa không ngừng xua quân khôi phục lại đất đai đã lọt vào tay của Ðại Việt. Kể từ đó, những cuộc chiến giữa Champa và Ðại Việt đã trở thành cuộc tranh chấp không lối thoát chung quanh vấn đề đất đai mà Ðại Việt đã chiếm đóng. Cuộc vùng dây của Chế Bồng Nga vào cuối thế kỷ thứ 14 cũng nằm trong mục tiêu nhằm phục hưng lại đất đai Champa đã mất. Sau ngày thất thủ của thành Ðồ Bàn vào năm 1471, vương quốc Champa không ngừng xua quân đòi lại đất đai bị chiếm đóng. Trận chiến giữa Champa và nhà Nguyễn vào năm 1611 và 1653 là hai thí dụ điển hình. Thế thì đâu là yếu tố mà Trần Gia Phụng dựa vào đó để cho rằng dân tộc Champa là những kẻ ngu muội, không biết đòi lại đất đai của họ đã lọt vào tay của người khác.
 
Tổng biên tập Champaka
Pgs. Ts. Po Dharma